Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tổ chức công tác kế toán ở các tập đoàn kinh tế Việt Nam theo mô hình công ty mẹ - công ty con
PREMIUM
Số trang
175
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1365

Tổ chức công tác kế toán ở các tập đoàn kinh tế Việt Nam theo mô hình công ty mẹ - công ty con

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

Tổ chức công tác kế toán ở các tập đoàn kinh tế Việt Nam

theo mô hình công ty mẹ - công ty con

Nguyễn Tuấn Anh

Chuyên ngành: Kế toán

Mã số: 62.34.30.01

Họ và tên cán bộ HDKH: GS,TS. Ngô Thế Chi

TS. Nguyễn Bá Minh

2011

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện

nay thì vấn đề củng cố và phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của thành phần

kinh tế Nhà nước, mà điển hình là các Tổng công ty Nhà nước, là nhiệm vụ

khó khăn nhưng hết sức cần thiết. Sự đòi hỏi này xuất phát từ việc kinh tế nhà

nước luôn được Đảng và Nhà nước xác định là lực lượng vật chất quan trọng

và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vấn đề

này đã trở thành một tất yếu khách quan như Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của

Đảng đề ra: “Xây dựng các Tổng công ty Nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt

trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong

nước và quốc tế; từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh”. Thực

hiện chủ trương của Đảng, một số Tổng công ty Nhà nước trong những ngành

then chốt sau khi được cổ phần hoá, sắp xếp lại đã hoạt động rất có hiệu quả và

đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân tạo tiền đề cho

sự ra đời của một số tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh theo mô hình công ty mẹ

- công ty con. Bên cạnh đó cũng là sự xuất hiện của không ít các doanh nghiệp

có quy mô tương đối lớn thuộc hình thức sở hữu tư nhân hoạt động theo mô

hình tập đoàn kinh tế.

Cùng với sự phát triển về quy mô và số lượng thì vấn đề nâng cao hiệu

quả quản lý đối với các tập đoàn kinh tế Việt Nam được đặt ra như một đòi hỏi

cần thiết. Trong đó, sử dụng công cụ kế toán - một công cụ quan trọng của hệ

công cụ quản lý kinh tế cần phải được nghiên cứu, tổ chức hợp lý và khoa học,

vận dụng vào thực tiễn đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên trên thực tế, việc quản

lý tập đoàn kinh tế ở nước ta thông qua công cụ kế toán còn nhiều bất cập,

chưa đi vào nề nếp. Đặc biệt là vấn đề tổ chức công tác kế toán, vấn đề cung

cấp thông tin kế toán tài chính và kế toán quản trị phục vụ cho công tác quản

trị trong các tập đoàn kinh tế. Do đó, nghiên cứu đề tài “Tổ chức công tác kế

toán ở các tập đoàn kinh tế Việt Nam theo mô hình công ty mẹ - công ty

con” là vấn đề vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, đồng thời là vấn đề mang tính

2

thời sự cấp thiết, giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý và

các tập đoàn kinh tế vận dụng vào thực tiễn, nghiên cứu, hoạch định chính

sách, quản lý trong quá trình phát triển nền kinh tế nói chung và phát triển tập

đoàn kinh tế nói riêng.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở phân tích lý luận, khái quát hoá về mặt phương pháp, luận án

sẽ làm rõ tính tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển các tập đoàn

kinh tế theo mô hình công ty mẹ - công ty con cũng như ý nghĩa của tổ chức

công tác kế toán trong các tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ - công ty

con. Luận án vận dụng những vấn đề lý luận vào thực tiễn nhằm góp phần

hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các tập đoàn kinh tế Việt nam, một

mô hình đang trở thành tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở

nước ta hiện nay.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Luận án không đề cập toàn bộ những vấn đề thuộc về mô hình tập đoàn

kinh tế nói chung mà tập trung nghiên cứu những vấn đề về mặt lý luận và thực

tiễn về tổ chức công tác kế toán tài chính phục vụ lập BCTC, đặc biệt là

BCTCHN và tổ chức kế toán quản trị tại công ty mẹ của các tập đoàn kinh tế

Việt nam theo mô hình công ty mẹ - công ty con hiện nay. Phân tích, đánh giá

những ưu điểm và hạn chế của việc tổ chức công tác kế toán nhằm tăng cường

công tác quản trị tập đoàn kinh tế.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

- Luận án đã hệ thống hoá và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về

tập đoàn kinh tế và tổ chức công tác kế toán trong các tập đoàn kinh tế như vai

trò, đặc điểm của tập đoàn kinh tế, đặc điểm tổ chức quản lý ở tập đoàn kinh tế

cũng như nguyên tắc, nội dung tổ chức công tác kế toán ở các tập đoàn kinh tế.

Đồng thời, luận án nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức công tác kế toán trong

các tập đoàn kinh tế ở một số nước phát triển để từ đó rút ra những bài học hữu

ích cho Việt nam trong tổ chức công tác kế toán đối với các tập đoàn kinh tế.

- Trên cơ sở khảo sát thực trạng về tổ chức công tác kế toán trong các

tập đoàn kinh tế thuộc các lĩnh vực kinh doanh, các thành phần kinh tế khác

3

nhau, luận án đã đánh giá khách quan về thực trạng tổ chức công tác kế toán

trong các tập đoàn kinh tế Việt Nam trên cả góc độ về tổ chức kế toán tài chính

và tổ chức kế toán quản trị.

- Luận án đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện khá toàn diện cả về lý

luận và thực tiễn cho việc tổ chức công tác kế toán trong các tập đoàn kinh tế

nhằm nâng cao hiệu quả của công cụ kế toán trong quản trị tập đoàn kinh tế.

5. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận án gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về tập đoàn kinh tế và tổ chức công tác kế

toán ở các tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ - công ty con

Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán ở các tập đoàn kinh tế

Việt Nam theo mô hình công ty mẹ - công ty con

Chương 3: Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán ở các tập đoàn kinh tế

Việt Nam theo mô hình công ty mẹ - công ty con

4

Chƣơng 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ VÀ TỔ CHỨC

CÔNG TÁC KẾ TOÁN Ở CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ

THEO MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON

1.1. TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ THEO MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG

TY CON

1.1.1. Quan niệm về tập đoàn kinh tế

Quan niệm về tập đoàn kinh tế và nhận diện về loại hình tập đoàn kinh tế

là rất đa dạng. Tập đoàn kinh tế ở các nước khác nhau được gắn với những tên

gọi khác nhau. Nhiều nước gọi là group hay business group, Ấn Độ dùng thuật

ngữ business houses, Nhật Bản gọi là keiretsu, Hàn Quốc dùng từ chaebol,

Trung Quốc dùng thuật ngữ tập đoàn doanh nghiệp…Sự đa dạng về tên gọi

hay thuật ngữ sử dụng nói lên tính đa dạng của hình thức liên kết được khái

quát chung là tập đoàn kinh tế.

Quan niệm về TĐKT có sự thay đổi và khác nhau theo thời gian, điều

kiện, trình độ phát triển kinh tế, sự phân công chuyên môn hoá, hợp tác hoá

giữa các doanh nghiệp, cách tiếp cận và mục tiêu quản lý ở mỗi nước. Điều đó

lý giải vì sao cho đến nay không có định nghĩa thống nhất về tập đoàn kinh tế.

Tập đoàn kinh tế có thể được nhận thức như là “một tổ hợp các công ty

độc lập về mặt pháp lý gồm một công ty mẹ và nhiều công ty hay chi nhánh

góp vốn cổ phần chịu sự kiểm soát của công ty mẹ. Hoặc đó là một tập đoàn

kinh tế và tài chính gồm một công ty mẹ và các công ty khác mà công ty mẹ

kiểm soát hay tham gia góp vốn, mỗi công ty con cũng có thể kiểm soát các

công ty khác hay tham gia tổ hợp khác” [19].

Tập đoàn kinh tế cũng có thể được hiểu là “tổ hợp các công ty có tư cách

pháp nhân, có mối liên kết với nhau về tài chính, công nghệ, thị trường và các

mối liên kết khác xuất phát từ lợi ích của chính những công ty thành viên đó”

[39].

5

Còn theo Luật Doanh nghiệp thì xác định „„tập đoàn kinh tế bao gồm

nhóm công ty có quy mô lớn có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành

trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ

chức lại hoặc các hình thức liên kết khác, gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích

kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp

kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên dưới hình thức công ty mẹ -

công ty con. Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký

kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Việc tổ chức hoạt động của

tập đoàn do các công ty thành lập tập đoàn tự thoả thuận quyết định‟‟[35].

Mặc dù có những quan niệm không hoàn toàn giống nhau về TĐKT, tuy

nhiên quan niệm phổ biến hiện nay cho rằng TĐKT có những đặc điểm cơ bản

là:

- Hình thức tổ chức phổ biến của tập đoàn kinh tế là công ty cổ phần và

hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Công ty mẹ chi phối toàn bộ

hoạt động của công ty con thông qua các quyết định chiến lược. Công ty mẹ

thường nắm giữ các vị trí chủ chốt trong công ty con như chủ tịch hội đồng

quản trị, giám đốc điều hành. Như vậy, trong thực tế công ty mẹ đã điều hành

các hoạt động tác nghiệp kinh doanh của công ty con. Trong khi đó, công ty

con vẫn có tư cách pháp nhân đầy đủ, độc lập, bình đẳng với công ty mẹ.

- Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, mỗi đơn vị thành viên

của tập đoàn là một pháp nhân độc lập. Vì vậy, các doanh nghiệp trong tập

đoàn, kể cả công ty mẹ và các công ty thành viên, bình đẳng với nhau trước

pháp luật, được thành lập và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Do tập đoàn kinh tế là một tổ hợp không có tư cách pháp nhân nên tập đoàn

không phải chịu trách nhiệm liên đới trước trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh

nghiệp khác. Công ty mẹ và các công ty con tự chịu trách nhiệm về việc đầu

tư, trong giới hạn của khoản vốn do mình bỏ ra.

- Đa dạng về tính chất sở hữu như TĐKT sở hữu tư nhân, TĐKT sở hữu

nhà nước, TĐKT sở hữu hỗn hợp. Ngày nay, trên thế giới, hầu hết các TĐKT

được tổ chức theo loại hình sở hữu hỗn hợp, dựa trên sở hữu tư nhân là chủ

yếu. Ngày nay, sở hữu nhiều chủ diễn ra theo xu hướng tăng số người có cổ

6

phần trong tập đoàn và giảm tỷ trọng sở hữu của từng thành viên trên tổng giá

trị và do đó, xu hướng của tập đoàn không còn là sở hữu của một cá nhân hay

một quốc gia nữa mà là sở hữu quốc tế, có quốc tịch ở một quốc gia nhất định.

Tính chất đa sở hữu đã tách bạch được quyền của chủ sở hữu với quyền của

chủ thể quản lý. Các liên kết kiểu mạng lưới thông qua vốn đầu tư trong tập

đoàn cũng làm thay đổi các quan hệ sở hữu trong mỗi tập đoàn nhất định, tạo

nên hình thức sở hữu hỗn hợp, rất phức tạp và mang tính xã hội hoá cao.

- Tập đoàn kinh tế là tập hợp các doanh nghiệp liên kết với nhau chủ yếu

thông qua quan hệ liên kết về đầu tư vốn và chi phối các liên kết khác như liên

kết về công nghệ, kỹ thuật sản xuất, thị trường, thương hiệu…Liên kết trong

các TĐKT có thể là những liên kết cùng ngành, liên kết khác ngành hay liên

kết đa ngành. Mỗi quan hệ liên kết cũng có nhiều cấp độ, có thể là liên kết chặt

chẽ hay lỏng lẻo tuỳ thuộc lĩnh vực liên kết và mức độ tham gia của các bên.

Ngoài ra, các tập đoàn còn tạo những liên kết ngoài vốn với các doanh nghiệp

độc lập, tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh như gia công sản phẩm,

phân phối, đại lý…

- Phạm vi hoạt động rộng và kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. TĐKT

có phạm vi hoạt động rất rộng, không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc

gia mà có thể phân bố ở nhiều quốc gia trên thế giới, thậm chí trên phạm vi

toàn cầu. Phạm vi hoạt động cho phép tập đoàn khai thác lợi thế về lao động,

nguồn nguyên liệu, thị trường, giảm chi phí vận tải,…nhằm tối đa hoá lợi

nhuận đồng thời phân tán rủi ro. Tập đoàn kinh doanh đa ngành nhưng thường

có một ngành chủ lực. Bên cạnh đó, có một số tập đoàn hoạt động trong lĩnh

vực hẹp nhằm khai thác lợi thế về chuyên môn, bí quyết công nghệ. Mặc dù

vậy cũng có những tập đoàn kinh doanh rất đa dạng và các ngành không liên

quan nhiều đến nhau. Bên cạnh những ngành sản xuất, các tập đoàn thường có

các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, nghiên cứu, đào tạo,…nhằm phục

vụ sự phát triển của chính tập đoàn.

- Vốn, doanh thu, lao động thường có quy mô rất lớn. Mặc dù chưa

thống nhất tiêu chí phân định quy mô vốn, doanh thu, lao động nhưng nói đến

TĐKT là chỉ một tổ hợp kinh doanh có quy mô vốn lớn, thậm chí lớn hơn cả

7

tổng sản phẩm quốc dân của một số quốc gia. Ngoài vốn cố định, vốn lưu

động, vốn nhân lực,…thì giá trị thương hiệu cũng là một điểm đáng lưu ý khi

xác định quy mô vốn của một TĐKT. Nhiều tập đoàn có quy mô kinh doanh

toàn cầu, kinh doanh đa ngành với rất nhiều sản phẩm hàng hoá khác nhau đã

đem lại doanh thu khổng lồ cho các TĐKT. Lực lượng lao động đổng đảo về số

lượng, trình độ cao cũng là một đặc điểm của tập đoàn. Tính chất quốc tế hoá

lao động là một điểm đáng chú ý trong hầu hết các TĐKT hiện nay.

Ở Việt Nam, các TĐKT được hình thành trong một nền kinh tế đang

chuyển đổi sang cơ chế thị trường do đó các TĐKT Việt Nam mang nhiều đặc

trưng khác biệt với những TĐKT tư bản nước ngoài đã ra đời, tồn tại và phát

triển hàng trăm năm trong nền kinh tế thị trường như:

- Được hình thành chủ yếu từ việc chuyển đổi và tổ chức lại các TCT

Nhà nước theo quyết định của Chính phủ. Khác với sự hình thành của TĐKT

tư bản nước ngoài được hình thành trên cơ sở sát nhập, mua bán, đầu tư vốn

giữa các doanh nghiệp thì sự hình thành của hầu hết các TĐKT Việt Nam là

kết quả và là giải pháp để thực hiện chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả

hoạt động của TCT Nhà nước của Chính phủ.

- Quy mô và khả năng tích tụ vốn của các TĐKT Việt Nam còn hạn chế,

phạm vi hoạt động nhỏ hẹp so với các TĐKT nước ngoài. Các TCT 91 được

chuyển đổi thành các TĐKT tuy có trình độ tích tụ, tập trung vốn cao hơn và

quy mô lớn hơn so với các TCT khác nhưng vẫn được đánh giá là chậm và yếu

so với ngay cả các nước khác trong khu vực. Đồng thời, trong khi phạm vi hoạt

động của các TĐKT nước ngoài hầu như dàn trải khắp toàn cầu, các khu vực

kinh tế thì phạm vi hoạt động của các TĐKT Việt Nam chỉ giới hạn trong lãnh

thổ Việt Nam, mặc dù có một số tập đoàn đã thực hiện đầu tư hoặc xuất khẩu

ra nước ngoài nhưng tỷ trọng còn nhỏ bé. Một số TĐKT tư nhân Việt Nam có

quy mô rất nhỏ bé và thực sự chưa xứng tầm với tên gọi tập đoàn như các

TĐKT của các nước phát triển.

- Hợp tác và liên kết kinh doanh giữa các đơn vị trong TĐKT chưa cao,

chưa thể hiện được bản chất kinh tế của TĐKT. Quan hệ về đầu tư vốn và tài

chính, thị trường, phân công chuyên môn hoá, nghiên cứu và phát triển giữa

8

các đơn vị thành viên chưa thực sự chặt chẽ và rõ nét đặc trưng quan hệ giữa

các doanh nghiệp thành viên trong TĐKT.

- Trình độ tổ chức, quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính còn hạn chế để

đáp ứng yêu cầu quản lý đối với TĐKT bởi chưa thực hiện phân tách rõ ràng

giữa quyền sở hữu hoặc đại diện sở hữu và quyền điều hành doanh nghiệp nên

chưa có sự chuyên môn hoá và chuyên sâu trong công tác quản lý.

1.1.2. Tính tất yếu của sự hình thành và phát triển các tập đoàn kinh

tế

* Tính tất yếu của sự hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế

Lý do trước hết lý giải cho sự ra đời của TĐKT xuất phát từ nhu cầu liên

kết, nhằm đa dạng hoá hoạt động của các doanh nghiệp trong một khối thống

nhất. Những lợi ích tiềm tàng của TĐKT có thể xảy ra trong quá trình liên kết

ngang, liên kết dọc và liên kết hỗn hợp, bởi vì nó sẽ làm giảm đi hoặc loại trừ

một sự lặp lại không cần thiết các chi phí cố định và làm gia tăng hiệu quả của

hoạt động SXKD. Khi các mối liên kết được tạo ra, nó sẽ gây nên một hiệu ứng

mà hiệu quả tổng cộng của nó lớn hơn những hiệu quả riêng lẻ, điều này có

nghĩa là một công ty hợp nhất sẽ có một giá trị cao hơn giá trị được kết hợp lại

từ hai công ty riêng biệt. Hơn nữa, lợi ích mang lại từ hợp nhất doanh nghiệp là

khả năng đa dạng hoá các hoạt động, qua đó giảm thiểu được rủi ro. Ngoài ra,

sự liên kết các doanh nghiệp thành viên vào chung một TĐKT sẽ làm gia tăng

những lợi ích về phương diện tài chính. Đó là khả năng tiết kiệm thuế, giảm

thấp chi phí phát hành các loại chứng khoán mới, làm tăng khả năng thanh toán

được các khoản nợ và chi phí sử dụng vốn vay thấp.

Lý do thứ hai là những nhu cầu phát sinh trong quá trình tăng trưởng, đó

chính là quá trình tăng quy mô và đa dạng hoá các hoạt động của một doanh

nghiệp. Dù muốn dù không, các doanh nghiệp cũng phải theo đuổi một chiến

lược tăng trưởng bởi vì đây là điều cần thiết, đóng vai trò quyết định đến sự tồn

tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Quá trình tăng trưởng của một doanh

nghiệp được biểu hiện một mặt ở sự điều chỉnh quy mô sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp và mặt khác, do sự điều chỉnh về bản chất hoạt động của

doanh nghiệp quyết định. Sự tập trung và nhích lại gần nhau giữa các doanh

9

nghiệp riêng lẻ thông qua các loại hình tăng trưởng hướng ra bên ngoài dẫn

đến việc hình thành các TĐKT.

Nguyên nhân thứ ba của hiện tượng nảy sinh và phát triển mạnh mẽ của

các TĐKT là sự ham muốn tìm kiếm lợi nhuận của các nhà doanh thương từ

các nước ở các thị trường bên ngoài. Với đặc điểm là sở hữu, kiểm soát và chi

phối việc sử dụng các phương tiện sản xuất thuận lợi ở nhiều quốc gia, các tập

đoàn đa quốc gia ngày nay đang trở thành một lực lượng tiêu biểu cho quá

trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Lý do cơ bản giải thích sự tồn tại của

các tập đoàn đa quốc gia là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên phạm vi quốc

tế và ưu thế cạnh tranh của mạng lưới toàn cầu về sản xuất và phân phối. Ưu

thế cạnh tranh này phát sinh phần nào là do sự liên kết theo chiều dọc và liên

kết theo chiều ngang với các chi nhánh ở nước ngoài. Bằng cách liên kết theo

chiều dọc, phần lớn các tập đoàn đa quốc gia có thể đảm bảo cung ứng ra nước

ngoài các nguyên liệu, sản phẩm trung gian và thông qua các hoạt động giao

dịch nội bộ của công ty, có thể phá vỡ sự không hoàn hảo về cạnh tranh thường

có ở các thị trường nước ngoài. Tập đoàn đa quốc gia cũng có thể đảm bảo

phân phối tốt hơn nhiều loại dịch vụ khác nhau, có thể bảo vệ và khai thác một

cách hoàn hảo hơn sức mạnh độc quyền của chúng. Hơn thế nữa, các tập đoàn

đa quốc gia và các chi nhánh của chúng thường tiếp cận tốt hơn đối với các thị

trường vốn quốc tế so với các công ty thuần tuý nội địa, và chính điều này tạo

cho chúng một vị thế thuận lợi hơn khi tìm nguồn tài trợ cho các dự án

lớn…Có thể nói, tập đoàn đa quốc gia – theo tổng kết của nhiều nhà nghiên

cứu, với các liên kết bên trong có tính bền vững, với sự đa dạng về lĩnh vực

hoạt động, được coi là một loại hình siêu công ty và nó phải đối mặt với ít rủi

ro hơn, như vậy nó sẽ hoạt động một cách hiệu quả hơn so với một doanh

nghiệp thuần tuý nội địa tại quốc gia mà chi nhánh của tập đoàn này hoạt động.

Chính nhờ các ưu thế trên, các tập đoàn đa quốc gia được xem là đội quân

xung kích của toàn cầu hoá.

* Phƣơng thức chủ yếu hình thành các tập đoàn kinh tế:

- Tập đoàn kinh tế hình thành theo phương thức truyền thống: Thông

qua tích tụ và tập trung vốn, các doanh nghiệp từng bước mở rộng sản xuất, tái

10

đầu tư, mở rộng quy mô, lĩnh vực hoạt động, từng bước chiếm lĩnh thị trường.

Nhu cầu liên kết trên nguyên tắc tự nguyện, đảm bảo lợi ích của mỗi doanh

nghiệp trước áp lực cạnh tranh hoặc yêu cầu đầu tư lớn mà bản thân mỗi thành

viên đơn lẻ không đủ năng lực thực hiện cũng là nhân tố thúc đẩy TĐKT ra

đời. Nhìn chung, TĐKT hình thành theo con đường truyền thống bằng các hình

thức sau:

+ Các doanh nghiệp đang hoạt động kết hợp lại với nhau bằng cách bán

cổ phẩn cho một công ty mới thành lập (thường gọi là công ty nắm giữ vốn).

Công ty nắm giữ vốn trở thành công ty mẹ, các công ty bán cổ phần trở thành

công ty con, việc góp vốn, trả tiền thực hiện trên văn bản, do các chủ nhân của

công ty con quyết định với nhau.

+ Một doanh nghiệp có quy mô lớn, tiềm lực mạnh về vốn, công nghệ,

thực hiện đầu tư vốn để thành lập các công ty con nhằm chiếm lĩnh thị trường,

cử người vào các công ty con để tham gia điều hành theo số vốn của mình.

Cách thức này còn được gọi là chia tách hay chia nhỏ công ty.

+ Các cổ đông đầu tư thành lập công ty mẹ ban đầu, công ty mẹ này tiếp

tục đầu tư thành lập các công ty con.

- Tập đoàn kinh tế được hình thành trên cơ sở đầu tư của chính phủ:

Chính phủ đầu tư vốn và thành lập các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước,

hoạt động trong một số lĩnh vực trọng yếu hoặc độc quyền nhà nước, sau một

quá trình hoạt động, chính phủ cơ cấu lại khu vực này và mô hình TĐKT là

một trong những lựa chọn. Cách thức này cần có giai đoạn chuyển tiếp cần

thiết, từ việc đa dạng hoá sở hữu, tạo lập mối liên kết, đầu tư, tổ chức lại theo

mô hình mới đến cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy các TĐKT hình thành và

phát triển.

Sự thành công của TĐKT không phụ thuộc vào việc chúng được hình

thành bằng cách nào, bởi lịch sử cho thấy rất nhiều TĐKT hình thành bằng con

đường truyền thống đã phá sản và cũng không ít TĐKT hình thành bằng đầu tư

của chính phủ đã đạt được những thành công. Như vậy, mỗi quốc gia với điều

kiện đặc thù cần lựa chọn con đường, bước đi phù hợp để vừa hình thành

những TĐKT mạnh, vừa đảm bảo phù hợp với quy luật thị trường.

11

1.1.3. Vai trò của các tập đoàn kinh tế

Tập đoàn kinh tế cho phép huy động được các nguồn lực vật chất, lao

động và vốn trong xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sự hỗ trợ

trong việc cải tổ cơ cấu sản xuất, hình thành những công ty hiện đại, quy mô

lớn có tiềm lực kinh tế lớn. Việc hình thành TĐKT cho phép phát huy lợi thế

của kinh tế quy mô lớn, khai thác một cách triệt để thương hiệu, hệ thống dịch

vụ đầu vào, đầu ra và dịch vụ chung của cả tập đoàn. Đồng thời, nhờ mối liên

kết chặt chẽ giữa các công ty sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chúng thống nhất

phương hướng, chiến lược trong phát triển kinh doanh, tăng cường sức mạnh

kinh tế và khả năng cạnh tranh của từng công ty thành viên.

Tập đoàn kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với các nước mới công

nghiệp hoá, là giải pháp để bảo vệ sản xuất trong nước, cạnh tranh lại với các

công ty đa quốc gia, tập đoàn lớn của các nước khác. Trong những điều kiện cụ

thể với sự hỗ trợ tích cực của nhà nước và định hướng chiến lược đúng đắn,

các tập đoàn kinh tế ở các nước công nghiệp mới còn có thể vươn ra và không

ngừng mở rộng, củng cố thị trường trên thế giới, kể cả thị trường các nước phát

triển.

Hình thành TĐKT là một đòi hỏi thực tế và khách quan nhằm khắc phục

khả năng hạn chế về vốn của từng công ty cá biệt. Trong tập đoàn kinh tế,

nguồn vốn được huy động từ các công ty thành viên và được tập trung đầu tư

vào những công ty, những dự án có hiệu quả nhất, những dự án tạo ra sức

mạnh quyết định cho phát triển tập đoàn, đáp ứng nhu cầu thu lợi nhuận tối đa

cho công ty thành viên và toàn tập đoàn. Hơn nữa, vốn của công ty này được

huy động đầu tư vào công ty khác và ngược lại, giúp cho các công ty liên kết

với nhau chặt chẽ hơn, quan tâm đến hiệu quả nhiều hơn và giúp nhau phát huy

có hiệu quả nguồn vốn của công ty và của cả TĐKT.

Tập đoàn kinh tế có tác dụng trong việc đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai

ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các công ty

thành viên. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ mới đòi hỏi

một khối lượng vốn rất lớn, có sự hợp lực của đội ngũ cán bộ nghiên cứu và

cần có các phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu khác mà mỗi công ty

12

riêng rẽ khó có khả năng huy động được. Chỉ có trên cơ sở liên kết các công ty

lại mới tạo được tiềm năng nghiên cứu khoa học to lớn đó.

Sự hợp tác về nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong tập đoàn

kinh tế còn cho phép các công ty thành viên có khả năng đưa nhanh những kết

quả của nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn hơn, nâng cao hiệu

quả của hoạt động nghiên cứu ứng dụng và thu hồi vốn nhanh. Điều này đặc

biệt quan trọng trong điều kiện phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học

công nghệ như ngày nay, hạn chế được tác dụng tiêu cực của hao mòn vô hình.

Sự phối hợp và thống nhất giữa các công ty thành viên trong thực hiện

một chiến lược công nghệ chung thông qua sự chỉ đạo thống nhất từ một trung

tâm tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn khâu quan trọng có ý nghĩa đột

phá với công nghệ thích hợp trong chuyển giao công nghệ với chi phí thấp

nhất, giảm lãng phí về vốn, tập trung được nguồn lực vào thực hiện những mục

tiêu chiến lược có lợi cho tất cả các công ty thành viên và cho toàn tập đoàn.

Tập đoàn kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp, trao đổi thông

tin và những kinh nghiệm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa

học công nghệ giữa các công ty thành viên. Những thông tin cần thiết và kinh

nghiệm trong chuyển giao công nghệ từ các công ty thành viên được phổ biến

rộng rãi trong TĐKT. Nhờ đó tránh được những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra

do thiếu những hiểu biết cơ bản trong chuyển giao công nghệ nước ngoài.

Ngoài ra, việc hình thành tập đoàn còn có ý nghĩa tăng cường hiệu quả

quản lý, sử dụng lợi thế về quy mô và kết hợp các ưu thế của sự chuyên môn

hoá với hoạt động kinh doanh đa dạng và tách bạch được quản lý hành chính

và quản lý kinh doanh đối với doanh nghiệp của tập đoàn. Phần lớn các TĐKT

có cơ quan nghiên cứu thống nhất – cơ quan thực hiện chức năng mà một

doanh nghiệp riêng lẻ khó có thể đảm đương nổi, như thu thập thông tin, dự

đoán thị trường, nghiên cứu kỹ thuật tiên tiến, dự báo xuất khẩu của các doanh

nghiệp cùng ngành. Trong kinh doanh, chúng có thể giúp doanh nghiệp riêng lẻ

giành được lợi thế cạnh tranh của cả tập đoàn như liên kết đàm phán đối ngoại

khi kinh doanh ngoại thương, cùng mua cùng bán trên thị trường, vay vốn ngân

hàng và xác lập chuẩn chất lượng sản phẩm.

13

1.1.4. Tổ chức quản lý trong các tập đoàn kinh tế

1.1.4.1. Đặc điểm tổ chức quản lý kinh doanh

Tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ - công ty con là một hình thức

tổ chức TĐKT mang tính chất phổ biến bao gồm công ty mẹ và các công ty

con, trong đó công ty mẹ thực hiện quyền chi phối, kiểm soát các công ty con

về chính sách tài chính và hoạt động nhằm thu được lợi ích kinh tế. Thông

thường quyền kiểm soát của công ty mẹ được xác định khi công ty mẹ nắm giữ

trên 50% quyền biểu quyết ở công ty con (thường tương ứng với việc nắm giữ

trên 50% vốn điều lệ).

* Đặc điểm về mối liên kết giữa các thành viên:

Trong TĐKT tổ chức theo mô hình này, mối liên kết chủ yếu là giữa

công ty mẹ và công ty con dựa trên nền tảng đầu tư tài chính của công ty mẹ

vào công ty con. Bằng việc nắm giữ đa số quyền biểu quyết tại công ty con,

công ty mẹ sẽ chi phối, kiểm soát, định hướng hoạt động của công ty con theo

mục tiêu, chiến lược kinh doanh của cả tập đoàn, phù hợp với điều lệ của công

ty mẹ - công ty con và pháp luật hiện hành, trong khi các công ty con vẫn giữ

tính độc lập về mặt pháp lý, thực hiện hạch toán độc lập với công ty mẹ.

* Đặc điểm về cấu trúc:

Trên thế giới, không có một mô hình cấu trúc chung cho các TĐKT,

nhưng quan hệ liên kết theo mô hình công ty mẹ - công ty con là mô hình cấu

trúc mang tính phổ biến. Theo đó, trong TĐKT tồn tại quan hệ thứ bậc với

nhiều tầng nấc khác nhau. Ở bậc thứ nhất, công ty mẹ là công ty có tầm ảnh

hưởng chi phối các công ty con trực thuộc. Vai trò chi phối này thể hiện ở vai

trò chủ sở hữu toàn bộ công ty con hoặc giữ mức vốn chi phối ở công ty con,

hoặc thể hiện ở vai trò quyết định trong sự phát triển khoa học và công nghệ

của công ty con. Trong trường hợp công ty mẹ không giữ mức vốn chi phối,

vai trò của nó chỉ giới hạn trong phần vốn liên kết mà nó đã đóng góp vào công

ty con. Theo cách tương tự, công ty con, với tư cách là một pháp nhân độc lập,

có thể thành lập công ty trực thuộc hoặc liên kết với các chủ thể khác hình

thành công ty mới, hoặc đầu tư thâm nhập vào công ty khác. Đây chính là quan

hệ ở bậc thứ hai. Cứ như thế, quan hệ ở bậc thứ ba được thiết lập. Phù hợp với

14

nguyên tắc thị trường, công ty ở bậc thứ hai hoặc bậc thứ ba của tập đoàn kinh

tế này lại có thể là công ty con của tập đoàn kinh tế khác. Quyền của công ty

mẹ với công ty con không phải được thực hiện theo những mệnh lệnh hành

chính, mà qua tư cách quyền của chủ sở hữu hoặc quyền của cổ đông với công

ty con. Để ngăn ngừa tình trạng can thiệp sâu của công ty mẹ vào hoạt động

kinh doanh của công ty con bằng những mệnh lệnh hành chính vượt quá thẩm

quyền của chủ sở hữu hoặc của một cổ đông, gây thiệt hại cho công ty con, luật

pháp nhiều nước quy định công ty mẹ phải chịu trách nhiệm đền bù các thiệt

hại đó. Với tư cách là những pháp nhân kinh tế độc lập, các công ty con có thể

đầu tư vào nhau hoặc đầu tư thành lập công ty mới. Nghĩa là, nó lại trở thành

công ty mẹ của một số công ty khác.

* Đặc điểm về tính chất sở hữu:

TĐKT theo mô hình công ty mẹ - công ty con có tính chất chế độ đa sở

hữu, công ty mẹ và các công ty con có thể là doanh nghiệp nhà nước, công ty

trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh với nước

ngoài…hoạt động theo luật tương ứng, theo điều lệ chung của tập đoàn và theo

điều lệ riêng của mỗi công ty. Các công ty con có thể ở trong hoặc ngoài nước

và phần lớn mang họ của công ty mẹ. Thông thường, TĐKT có chế độ sở hữu

hỗn hợp và được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần. Tuy nhiên, Nhà nước có

thể thực hiện quyền sở hữu tập đoàn thông qua nắm giữ 100% vốn điều lệ của

công ty mẹ hoặc nắm giữ số cổ phần (hay tỷ lệ vốn góp) chi phối ở công ty mẹ,

đồng thời công ty mẹ sở hữu 100% hoặc nắm giữ số cổ phần (hay tỷ lệ vốn

góp) chi phối ở các công ty con. Trường hợp đặc biệt, công ty mẹ và các công

ty con đều là các doanh nghiệp Nhà nước, tạo thành một TĐKT Nhà nước, có

tính chất sở hữu đồng nhất.

* Đặc điểm về cơ cấu tổ chức quản lý:

TĐKT theo mô hình công ty mẹ - công ty con chỉ được xem như một

chủ thể kinh tế chứ không phải là chủ thể pháp lý, do đó sẽ không có bộ máy

quản lý chung cho toàn bộ tập đoàn được thiết lập. Công ty mẹ và các công ty

con giữ tính độc lập về mặt pháp lý và đều có cơ quan quyền lực riêng. Công ty

mẹ là chủ sở hữu phần vốn tham gia đầu tư vào các công ty con và có quyền cử

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!