Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn" theo luật hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦM MINH KHANG
TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
“PHẠM TỘI NHƯNG CHƯA GÂY THIỆT HẠI
HOẶC GÂY THIỆT HẠI KHÔNG LỚN”
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
“PHẠM TỘI NHƯNG CHƯA GÂY THIỆT HẠI
HOẶC GÂY THIỆT HẠI KHÔNG LỚN”
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã CN: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
Học viên: Trầm Minh Khang
Lớp: CHL khóa 1 – Sóc Trăng
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự
hướng dẫn của PGS-TS.Nguyễn Thị Phương Hoa.
Các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được nêu rõ nguồn gốc. Các kết
quả trình bày trong Luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công
trình khoa học nào trước đây.
Tác giả luận văn
Trầm Minh Khang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nội dung từ viết tắt
BLHS Bộ luật hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
TAND Tòa án nhân dân
TNHS Trách nhiệm hình sự
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ “PHẠM
TỘI NHƯNG CHƯA GÂY THIỆT HẠI” ............................................................6
1.1. Quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” ..............................6
1.1.1. Khái niệm, điều kiện áp dụng của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” .................................................................6
1.1.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại”.................................................................................10
1.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” .................................................................................21
1.2.1. Cơ sở của kiến nghị.................................................................................21
1.2.2. Kiến nghị cụ thể.......................................................................................22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................25
CHƯƠNG 2. TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ “PHẠM
TỘI NHƯNG GÂY THIỆT HẠI KHÔNG LỚN” ..............................................26
2.1. Quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” ...................26
2.1.1. Khái niệm, điều kiện áp dụng của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” .......................................................26
2.1.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng gây thiệt hại không lớn”.........................................................................29
2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng gây thiệt hại không lớn”.........................................................................45
2.2.1. Cơ sở của kiến nghị.................................................................................45
2.2.2. Kiến nghị cụ thể.......................................................................................46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................49
KẾT LUẬN............................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là vấn đề vô cùng quan
trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, được Bộ luật hình sự quy định là một
trong những căn cứ bắt buộc Tòa án phải xem xét, cân nhắc khi quyết định hình
phạt đối với bị cáo. Trong đó, các tình tiết giảm nhẹ, với ý nghĩa làm giảm mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục
hoặc các đặc điểm về nhân thân đáng để khoan hồng cho người phạm tội, khi được
áp dụng một cách đúng đắn, phù hợp sẽ có vai trò đặc biệt tích cực trong việc giáo
dục, giúp người phạm tội nhận thức được hành vi sai trái của mình và chính sách
khoan hồng của Nhà nước, tạo ra cơ hội để những người được hưởng các tình tiết
giảm nhẹ sớm trở về với xã hội, tái hòa nhập cộng đồng. Mặt khác, nếu hiểu và áp
dụng không chính xác các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm
tội có thể dẫn đến mục đích của hình phạt và việc áp dụng các chính sách khoan
hồng của Nhà nước trong việc giáo dục người phạm tội, việc đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm không đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu hoàn thiện các
quy định về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là hết sức cần thiết
và quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Theo quy định của BLHS 2015, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
được liệt kê từ điểm a đến điểm x khoản 1, Điều 51 và ngoài ra tại khoản 2 Điều 51
còn quy định Tòa án có thể coi đầu thú hoặc các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ
nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Tuy nhiên, quy định của luật lại
chưa giải thích một cách cụ thể và đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ này mà còn mang
tính chất liệt kê, chính vì vậy nên dẫn đến việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự hiện nay còn nhiều bất
cập. Qua thời gian công tác tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, bản
thân nhận thấy một trong những vướng mắc, bất cập phổ biến liên quan đến vấn đề
này là việc hiểu và áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn” được quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 51 BLHS
năm 2015 hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể, xuất phát từ việc
BLHS chưa quy định rõ ràng về khái niệm cũng như điều kiện áp dụng của tình tiết
giảm nhẹ này, đồng thời Hội đồng thẩm phán TAND tối cao cũng như giữa liên
ngành Tư pháp trung ương cũng chưa ban hành Nghị quyết hoặc văn bản chung
thống nhất để hướng dẫn áp dụng mà việc xác định chủ yếu dựa vào quan điểm chỉ
đạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và nhận thức của người tiến hành tố tụng.
Chính vì vậy đã dẫn đến thực trạng việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này trong
2
các vụ án hiện nay chưa được nhất quán giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, thậm
chí là trong nội bộ các cơ quan này thì cũng có sự áp dụng khác nhau giữa các đơn
vị trực thuộc, hoặc trong cùng một đơn vị ở từng giai đoạn khác nhau cũng có
những quan điểm khác nhau về một số vấn đề như: đối với các tội phạm xâm hại
cùng lúc nhiều khách thể hoặc thiệt hại gây ra có thể là phi vật chất thì có được áp
dụng tình tiết giảm nhẹ này không? việc tài sản được thu hồi nằm ngoài ý muốn chủ
quan của người phạm tội thì có được áp dụng không hay việc xác định mức thiệt hại
như thế nào là “không lớn”…, đã có nhiều trường hợp Viện kiểm sát ban hành kiến
nghị, kháng nghị bản án của Tòa án vì quan điểm khác nhau trong việc áp dụng hay
không áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt
hại không lớn” khiến cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài. Trong khi đó, số lượng
các vụ án hình sự có chiều hướng ngày càng gia tăng phức tạp hơn trước, khiến cho
yêu cầu giải quyết vướng mắc trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trở nên cấp
bách. Trước tình hình đó, liên ngành tư pháp địa phương cũng đã tiến hành nhiều
cuộc Hội nghị chuyên đề liên quan đến việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, tuy nhiên vẫn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, nêu lên các quan
điểm chứ chưa đưa ra một khái niệm chung cũng như chưa có giải pháp hiệu quả
nào để khắc phục hạn chế trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trên thực tế.
Xuất phát từ thực trạng như trên, nhận thấy cần phải có sự nghiên cứu nhằm
tạo ra sự nhận thức một cách đầy đủ, chính xác hơn quy định về tình tiết giảm nhẹ
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”, người viết đã
chọn đề tài nghiên cứu: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” theo luật hình sự Việt
Nam, nhằm mục đích thông qua việc nghiên cứu đề tài có thể phân tích, làm sáng tỏ
những bất cập, hạn chế trong thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, xây dựng
được cơ sở lý luận chung nhất về khái niệm cũng như điều kiện áp dụng của tình
tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”, từ
đó đề ra được các giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm khắc phục các vướng mắc,
hạn chế trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, giúp cho việc áp dụng tình tiết
giảm nhẹ nói trên của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và các cơ quan tiến
hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng được chính xác, khách quan và thống nhất.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn, tác
giả nhận thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy đủ và
riêng biệt về tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt
hại không lớn”. Nghiên cứu các quy định của pháp luật thì hiện nay trong các Nghị
3
quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hay các Thông tư liên tịch của liên
ngành Tư pháp trung ương cũng chưa hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng tình tiết
giảm nhẹ này. Tuy nhiên, liên quan đến đề tài về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo luật Hình sự Việt Nam thì có không ít các công trình
nghiên cứu, bài viết khoa học của nhiều nhà khoa học như: Các sách chuyên khảo
của tác giả Đinh Văn Quế, nguyên Chánh tòa Hình sự TAND tối cao như: Bình luận
khoa học BLHS Tập 1 (2012), Nhà xuất bản Lao Động; Bình luận các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (2009), Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh; Luận án tiến sỹ: “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam”, tác giả Trần Thị Quang Vinh (năm 2000); Bình luận khoa học
BLHS 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức, do Trần Văn Biên chủ biên cùng nhóm tác
giả đang công tác tại Bộ Tư pháp thực hiện (năm 2016); Giáo trình Luật Hình sự
Việt Nam phần chung (2012), do Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh biên
soạn, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam; Lê Văn Luật (2010), Pháp luật hình
sự Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Tư pháp.
Ngoài ra, còn có các bài viết khoa học đăng trên các tạp chí như: Bùi Kiến
Quốc (2000), Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong BLHS
Việt Nam, Tạp chí Luật học (số 06); Trịnh Tiến Việt (2004), Về ảnh hưởng của các
tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt, Tạp chí Khoa học pháp luật (số
01); Phạm Hồng Hải (2006), Bàn về nhận thức và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, Tạp chí Kiểm sát (số 17); Minh Lương (2007), Khái niệm và
các đặc điểm của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam,
tạp chí TAND (Số 12); Lê Văn Luật (2005), Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng
tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g khoản 1 điều 46 BLHS, Tạp chí Khoa học
pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2005 (Số 02); Trần Thị Quang Vinh
(2002), Phạm vi của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong vụ án hình sự,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật (Số 8); Bùi Kiến Quốc
(2000), Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong BLHS Việt
Nam, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội (Số 6).
Các công trình nghiên cứu, các bài viết khoa học của các tác giả nói trên đều
đã có đề cập đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam ở các phương diện và mức độ khác nhau, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nghiên cứu đề tài của tác giả thông qua việc kế thừa các kết quả nghiên cứu về khái
niệm, bản chất pháp lý, phạm vi và ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự nói chung. Tuy nhiên chưa có một công trình nghiên cứu nào riêng biệt về
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây
4
thiệt hại không lớn” mà chủ yếu mới đề cập một cách khái quát về tình tiết này, đặc
biệt là chưa phản ánh đầy đủ được những vướng mắc, bất cập của việc hiểu và áp
dụng tình tiết này trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, do đó cần có sự phát
triển các kết quả đã đạt được trên để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện những vấn đề
còn vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn mà hiện nay chưa giải quyết được.
Do đó có thể nói rằng đề tài nghiên cứu về “Tình tiết giảm nhẹ phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn trong luật hình sự Việt Nam” nghiên
cứu những vấn đề mới liên quan đến vướng mắc phát sinh trong thực tiễn giải quyết
án hình sự và không trùng với các công trình đã công bố liên quan đến đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật về tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn”, luận văn hướng tới mục đích là đề ra các giải pháp
hướng tới thống nhất, hoàn thiện về mặt lý luận cũng như là đưa ra được các giải pháp
thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trong thực
tiễn giải quyết các vụ án hình sự nói chung và trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu
như sau:
- Về mặt lý luận: Phân tích và xây dựng định nghĩa khoa học cũng như những
vấn đề về điều kiện áp dụng của tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại hoặc gây thiệt hại không lớn”.
- Về mặt thực tiễn: Phản ánh và phân tích, làm rõ những tồn tại, hạn chế trong
thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây
thiệt hại không lớn”, thể hiện qua việc giải quyết từng vụ án cụ thể.
- Cuối cùng là kiến nghị, đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề
bất cập, hạn chế đã được làm rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng tình tiết
giảm nhẹ nói trên trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, quy định
của BLHS hiện hành về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa
gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”, đồng thời nghiên cứu tình hình áp dụng,
các vướng mắc, hạn chế của việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này trong thực tiễn giải
quyết các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng và một số địa phương khác.
Phạm vi nghiên cứu: Các vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn áp
dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không
lớn” qua việc giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn một số địa phương khác.
5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được trình bày trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, Lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và Pháp luật, nguyên
tắc của Đảng và Nhà nước ta về xử lý tội phạm. Đặc biệt là những quan điểm chỉ
đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết 08/NQTW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể khác như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu trên cơ sở các
quy định của pháp luật, các nghiên cứu khoa học và hồ sơ, bản án thực tế các vụ án
hình sự trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng và một số địa phương khác.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu: thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả dự kiến kết quả
đem lại về mặt lý luận là sẽ đưa ra được khái niệm chung nhất về tình tiết giảm nhẹ
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”, đồng thời phân
tích làm rõ được nội dung cũng như các điều kiện để người phạm tội có thể được
hưởng tình tiết giảm nhẹ này cũng như giải quyết một số trường hợp phức tạp về áp
dụng tình tiết giảm nhẹ này trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, chỉ ra được
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, từ
đó đề xuất, kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.
- Địa chỉ ứng dựng các kết quả nghiên cứu: Kết quả nghiên cứu của Luận văn
có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo về mặt nghiệp vụ cho các cơ quan
tiến hành tố tụng nói chung và trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng trong việc đánh
giá, nhận định để áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn” trong giải quyết từng vụ án cụ thể, đồng thời luận văn
có thể làm nguồn tư liệu để Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, liên ngành tư pháp
trung ương xem xét trong việc ban hành các Nghị quyết, Thông tư liên tịch để
hướng dẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo thì Luận văn
được chia thành 2 Chương cụ thể như sau:
- Chương 1: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa
gây thiệt hại” trong luật hình sự Việt Nam
- Chương 2: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng gây
thiệt hại không lớn” trong luật hình sự Việt Nam
6
CHƯƠNG 1
TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
“PHẠM TỘI NHƯNG CHƯA GÂY THIỆT HẠI”
1.1. Quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại”
1.1.1. Khái niệm, điều kiện áp dụng của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại”
a) Về khái niệm:
Quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây
thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” đã xuất hiện từ rất sớm kể từ khi BLHS đầu
tiên của nước ta ra đời năm 1985, sau đó lần lượt là BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung
năm 2009 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999) và cho đến BLHS năm 2015 sửa đổi
bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) chính thức có hiệu lực thì tình
tiết giảm nhẹ này vẫn được giữ nguyên là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự thuộc khoản 1 của Điều luật quy định về tình tiết giảm nhẹ cũng như là
nội dung của tình tiết hầu như không có sự thay đổi nào cho đến nay, được quy định
cụ thể tại điểm h, khoản 1, Điều 51 BLHS năm 2015. Khác với một số tình tiết giảm
nhẹ khác, tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại
không lớn” về bản chất chỉ là một tình tiết giảm nhẹ nhưng được chia thành hai mức
độ khác nhau, trong đó người phạm tội chỉ có thể được áp dụng đồng thời một trong
hai mức độ đó là “chưa gây thiệt hại” hoặc “gây thiệt hại không lớn” của tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này đối với tội phạm mà mình thực hiện.
Tuy nhiên, quy định về tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn” đến nay nhìn chung vẫn còn được nêu trong BLHS ở
dạng liệt kê mà chưa có một quy định cụ thể nào trong các Nghị quyết của Hội đồng
thẩm phán TAND tối cao cũng như các Thông tư liên tịch của liên ngành tư pháp
trung ương hướng dẫn về việc hiểu và áp dụng tình tiết này. Qua nghiên cứu, tìm hiểu
và khảo sát các văn bản mang tính hướng dẫn nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố
tụng trung ương thì “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” có thể được hiểu như sau:
- Theo Công văn số 994/VKSTC-V3 ngày 09/4/2012 của Vụ Thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử (Vụ 3) - VKSND tối cao về việc áp dụng tình tiết giảm
nhẹ trong BLHS thì “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” là nằm ngoài ý thức chủ
quan của người phạm tội và được hiểu là trường hợp: “hậu quả vật chất do hành vi
phạm tội chưa xảy ra trên thực tế như trộm cắp chưa lấy được tài sản, chưa dịch
chuyển ra khỏi nơi quản lý của chủ tài sản. Nếu đã dịch chuyển tài sản ra khỏi nơi
quản lý của chủ tài sản mà bị quần chúng phát hiện, đuổi theo và bị bắt quả tang hay
7
được cơ quan điều tra thu hồi trong quá trình điều tra thì không thuộc trường hợp
chưa gây thiệt hại”.
- Theo Sổ tay thẩm phán TAND tối cao thì “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại” được hiểu như sau: “Chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện,
nhưng thiệt hại không xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cần phân
biệt với phạm tội chưa đạt (phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng
không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của
người phạm tội)” 1
.
- Qua nghiên cứu một số sách chuyên khảo, kết quả nghiên cứu của các
chuyên gia, nhà khoa học khác thì “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” được hiểu
theo những khái niệm sau đây:
+ Theo Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung của Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh thì phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại được hiểu là trường
hợp “phạm tội nhưng thiệt hại trên thực tế chưa xảy ra do nguyên nhân khách quan
nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội”
2
.
+ Bình luận về tình tiết “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại”, GS.TS. Nguyễn
Ngọc Hòa cho rằng chưa gây thiệt hại là trường hợp thiệt hại của tội phạm không
xảy ra có nguyên nhân nằm ngoài ý muốn của người phạm tội3
.
+ Theo tác giả Đinh Văn Quế, nguyên thành viên Hội đồng thẩm phán, nguyên
Chánh tòa Hình sự TAND tối cao thì: “Chưa gây thiệt hại là hậu quả vật chất do
hành vi phạm tội chưa xảy ra”, khái niệm này được tác giả minh họa bằng trong các
trường hợp sau: Giết người mà người đó không chết, trộm cắp nhưng chưa lấy được
tài sản, hiếp dâm nhưng chưa giao cấu được với người bị hại... 4
+ Theo TS. Trần Minh Hưởng (Học viện Cảnh sát nhân dân) thì: chưa gây
thiệt hại là trường hợp hậu quả của tội phạm chưa xảy ra và khi áp dụng tình tiết
này thì cần chú ý đến nguy cơ xảy ra hậu quả, tác hại của tội phạm ở mức độ nào,
nguyên nhân dẫn đến việc hậu quả chưa xảy ra là nguyên nhân chủ quan hay
nguyên nhân khách quan. 5
1 Trang thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, Sổ tay Thẩm phán, “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại
hoặc gây thiệt hại không lớn”, http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/ebb/1787571?p_id=1787571&p_l
ang=vn&m_action=2&p_itemid=647, truy cập ngày 09/01/2018.
2 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Trần
Thị Quang Vinh (Chủ biên), Nhà xuất bản Hồng Đức, Hội luật gia Việt Nam, tr. 324.
3 Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2017), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm
2017 (Phần chung), Nhà xuất bản Tư pháp, tr. 257-258.
4 Đinh Văn Quế (2017), Bình luận BLHS năm 2015, Phần thứ nhất: Những quy định chung, Nhà xuất bản
Thông tin và truyền thông, Hà Nội, tr. 247.
5 Tập thể tác giả Học viện Cảnh sát nhân dân do TS. Trần Minh Hưởng chủ biên (2009), Hệ thống pháp luật
hình sự Việt Nam, Bình luận khoa học BLHS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Tập 1), Nhà xuất bản Lao
Động, Hà Nội, tr. 124.
8
Như vậy, theo hướng dẫn của của từng cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung
ương cũng như quan điểm khoa học của các tác giả như trên ta có thể thấy được
mặc dù vẫn còn có sự chưa thống nhất hoàn toàn với nhau về khái niệm “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” nhưng có một điểm chung nhất đó là đều xác định việc
“chưa gây thiệt hại” luôn nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội. Chúng tôi
hoàn toàn đồng ý với nhận định này bởi lẽ mục đích của tội phạm bao giờ cũng
nhằm để xâm hại một khách thể nào đó được pháp luật hình sự bảo vệ, với động cơ
phạm tội có thể là vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác nhưng lúc nào người phạm
tội cũng mong muốn gây ra một thiệt hại nhất định cho đối tượng mà tội phạm
nhắm tới, vì vậy việc thiệt hại không xảy ra là điều mà người phạm tội không mong
muốn, tức là “chưa gây thiệt hại” lúc nào cũng nằm ngoài ý thức chủ quan của
người phạm tội. Trừ các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý do tuy rằng người
phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng đối với các tội phạm vô ý thì
không có giai đoạn phạm tội chưa đạt và đều đi kèm với việc gây ra một thiệt hại ở
mức độ nghiêm trọng hơn đối với các tội phạm cố ý thì mới cấu thành tội phạm.
Trong các quan điểm khoa học về tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây
thiệt hại” như trên nhận thấy về vấn đề xác định khái niệm “thiệt hại” được nói đến
trong tình tiết giảm nhẹ này vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Theo Từ điển Luật
học thì thiệt hại là “Tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân hoặc tài sản, danh dự, uy tín của
pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ”6
. Đồng thời, theo quy định tại
khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 về định nghĩa tội phạm thì các thiệt hại mà tội phạm
xâm hại đến bao gồm: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Như vậy tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi nó có thể gây ra những thiệt
hại không chỉ về mặt vật chất như tài sản, tính mạng, sức khỏe mà nó còn có thể gây
ra những thiệt hại mang tính phi vật chất như: danh dự, nhân phẩm, uy tín; chế độ
quản lý Nhà nước về trật tự công cộng, kinh tế, chính trị, văn hóa... Do đó, chúng tôi
cho rằng khái niệm “thiệt hại” được nêu trong tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại” cần hiểu là bao gồm tất cả các thiệt hại vật chất, phi vật chất mà
người phạm tội gây ra chứ không chỉ giới hạn thiệt hại về mặt vật chất như một số
6 Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tư pháp và Nhà xuất bản Từ
điển Bách khoa, tr. 713.
9
quan điểm hiện nay. Ngoài ra cần lưu ý rằng, “thiệt hại” được xem xét trong tình tiết
giảm nhẹ này không chỉ bao gồm loại thiệt hại mà mà tội phạm nhắm tới, hay nói
cách khác không chỉ xem xét thiệt hại của khách thể chính đại diện cho tội phạm (ví
dụ: các tội thuộc Chương tội xâm phạm sở hữu) mà là phải đảm bảo xem xét đầy đủ
thiệt hại ở các khách thể khác cũng bị hành vi phạm tội xâm hại.
Vấn đề thứ hai cần làm rõ khi xây dựng khái niệm về tình tiết “Phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại” đó là xác định khái niệm như thế nào là “phạm tội”. Theo khoa
học pháp lý thì khái niệm “phạm tội” là việc một người thực thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội, có lỗi và được quy định là tội phạm trong luật hình sự (chưa nói đến
việc người đó có đủ năng lực trách nhiệm hình sự hay chưa, khác với khái niệm “Tội
phạm”). Như vậy, chỉ được xem là một người đang phạm tội chỉ khi người đó bắt đầu
thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của một tội nhất
định nào đó trong BLHS, việc hành vi phạm tội đó của họ có thực hiện được đến
cùng hay không (đạt hay chưa đạt) thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà
mình đã thực hiện nên khái niệm “phạm tội” trong tình tiết giảm nhẹ này được hiểu
bao gồm cả trường hợp phạm tội chưa đạt. Còn ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì
người chuẩn bị phạm tội vẫn chưa thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách
quan của cấu thành tội phạm mà mình định phạm nên tình tiết giảm nhẹ “phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” không bao gồm trường hợp chuẩn bị phạm tội.
Dựa trên sự phân tích và kế thừa những kết quả nghiên cứu như trên, chúng tôi
xin đưa ra khái niệm của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại” như sau:
“Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại là trường hợp người phạm tội đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong mặt khách quan của cấu
thành tội phạm, nhưng chưa gây ra thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất do
nguyên nhân nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội”.
b) Về điều kiện áp dụng:
Vấn đề điều kiện áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể các trường hợp
nào thì được người phạm tội được áp dụng còn trường hợp nào thì không được áp
dụng, căn cứ vào quy định cụ thể của BLHS và nhận thức về khái niệm của tình tiết
giảm nhẹ này như đã nêu trên có thể rút ra một số điều kiện áp dụng đối với tình tiết
này như sau:
- Thứ nhất, chỉ áp dụng “chưa gây thiệt hại” khi người phạm tội đã thực hiện
hành vi được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm nhưng thiệt hại
chưa xảy ra trên thực tế, bao gồm trường hợp phạm tội chưa đạt.
10
- Thứ hai, “thiệt hại” được xác định khi xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ này
bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại phi vật chất. Thiệt hại này không nhất thiết
phải là khách thể trực tiếp mà tội phạm nhắm tới (động cơ, mục đích phạm tội) mà là
bất kỳ thiệt hại nào được luật hình sự bảo vệ nhưng bị hành vi phạm tội xâm phạm.
- Thứ ba, hành vi phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại của người phạm tội đối
với tội phạm nào thì được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội nhưng chưa gây
thiệt hại” đối với tội phạm đó.
- Thứ tư, việc thiệt hại chưa xảy ra luôn nằm ngoài ý thức chủ quan của người
phạm tội. Nếu việc chưa gây thiệt hại là nằm trong ý thức chủ quan của người phạm
tội là thuộc phạm vi áp dụng của tình tiết giảm nhẹ khác (ví dụ: người phạm tội đã
ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm).
- Thứ năm, tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” không
đồng thời là tình tiết tội hoặc tình tiết định khung nên việc áp dụng tình tiết này
không bị giới hạn bởi quy định tại khoản 3 Điều 51 BLHS năm 2015 (tình tiết giảm
nhẹ nào đã được áp dụng làm tình tiết định tội hoặc định khung thì không được tiếp
tục áp dụng là tình tiết giảm nhẹ nữa).
1.1.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại”
1.1.2.1. Vướng mắc liên quan đến xác định thiệt hại dựa trên dấu hiệu khách
thể của tội phạm
Mỗi tội phạm được quy định trong BLHS đều có những khách thể trực tiếp mà
tội phạm đó xâm hại, được phân chia thành từng Chương riêng biệt dựa theo khách
thể loại của từng nhóm tội phạm trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS. Thực
tiễn cho thấy hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất với nhau về việc
tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” liên quan đến mặt khách thể
bị xâm hại đối với một số loại tội phạm nhất định, thể hiện ở những vấn đề sau:
- Vấn đề vướng mắc đầu tiên đó là đối với một số tội phạm thuộc Chương các
tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, có khách thể là các quyền tự do
thân thể, bất khả xâm phạm về chổ ở, tự do tín ngưỡng, tôn giáo… được Hiến pháp
và pháp luật bảo vệ bị hành vi phạm tội xâm hại. Do đó đối với các tội này, thiệt hại
xảy ra cho người bị hại khi các quyền tự do cơ bản của họ đã bị hành vi phạm tội
làm cản trở, xâm hại (ví dụ như đã bị bắt, giữ trái pháp luật, đã bị xâm phạm chổ ở,
bị cản trở tự do tín ngưỡng), việc sau đó hành vi xâm hại các quyền này bị chấm dứt
thì cũng không thể xem như chưa gây thiệt hại được. Tuy nhiên vẫn còn một số
trường hợp nhận thức chưa đúng về loại tội phạm này dẫn đến áp dụng tình tiết