Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tính đối thoại trong truyện ngắn nam cao
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LỮ THỊ ÁNH NGUYỆT
TÍNH ĐỐI THOẠI
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 8220121
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
Đà Nẵng - Năm 2018
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐHĐN
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH TRƯỜNG
Phản biện 1: TS Ngô Minh Hiền
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Phong Nam
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ Văn học Việt Nam họp tại Đại học Sư phạm
- Đại học Đà Nẵng vào ngày 31 tháng 3 năm 2018.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin – Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tính đối thoại là hình thái chức năng thẩm mĩ thuộc về
chiều sâu tinh thần của bản mệnh lí thuyết văn chương. Tuy nhiên,
hình thái tổ chức cấu trúc này chưa thực sự được quan tâm, khám phá
như một khung tri thức chính yếu để soi chiếu, giải mã các hiện
tượng văn học. Vì thế, nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc nhìn tính
đối thoại là hướng khám phá giàu tiềm năng, góp phần hình thành
thêm những kênh tiếp nhận mới mẻ, đa chiều.
1.2. Nam Cao là một trong những đại biểu xuất sắc của trào
lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Đặc biệt, với
thể loại truyện ngắn đã thắp sáng cho tên tuổi người nghệ sĩ ngay từ
khi bước vào làng văn. Nhiều tác phẩm của Nam Cao cho đến bây giờ
vẫn nguyên là “những khuôn thước” mẫu mực, đầy thách thức cho
những bút văn muốn bước vào loại hình sáng tác này. Điều đó chứng
tỏ tài năng và cá tính sáng tạo đã in đậm trong kĩ thuật viết của nhà
văn. Và một trong những thành công trong tư duy nghệ thuật của Nam
Cao là xây dựng nên các tổ chức đối thoại nghệ thuật xuyên suốt các
mạch trần thuật - một trong những yếu tố tinh kết lên nhiều không gian
thẩm mĩ khác nhau trong chiều sâu các lớp văn bản nghệ thuật.
1.3. Việc chọn đề tài Tính đối thoại trong truyện ngắn Nam
Cao để nghiên cứu, chúng tôi hướng tới tri nhận hành trình sáng tạo
nghệ thuật của nhà văn trong xác lập quyền năng nhân vị; trong tổ
chức lời văn, giọng điệu; trong giao thoa, tương tác thể loại qua ý
thức đối thoại. Trên cơ sở đó, việc định vị được bản chất các mô
hình, cấu trúc nghệ thuật truyện ngắn Nam Cao trong trường đối
thoại nghệ thuật chúng tôi hi vọng bổ sung thêm một cách nhìn mới
2
về bút pháp trần thuật đầy sáng tạo của tác giả này. Qua đó, góp phần
khẳng định tài năng, phong cách và những nỗ lực cách tân truyện
ngắn cũng như vai trò, vị thế của Nam Cao trong dòng chảy văn học
Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những bài viết và công trình nghiên cứu liên quan đến
tính đối thoại
Khởi nguồn từ những năm 20 của thế kỷ XX, vấn đề tính đối
thoại trong văn học đã được nhà nghiên cứu văn học M. Bakhtin đề
cập, dẫn giải qua khảo sát tiểu thuyết Dostoievski và Rabelais. Tiếp
theo đó, các học giả thuộc các trường phái cấu trúc và kí hiệu học
như J. Kristeva, T. Todorov, Derrida phát triển, mở rộng nội hàm
khái niệm này trên nhiều cấp độ khác nhau của đường biên lí thuyết
văn chương. Cho đến nay, tính đối thoại trong văn học nghệ thuật
luôn gắn với tên tuổi M. Bakhtin và bản chất của đường dẫn lí thuyết
này đã trở thành tri thức quan trọng cho hoạt động sáng tạo và tiếp
nhận của nhiều cây bút sáng tác cũng như các nhà nghiên cứu, lý luận
phê bình học thuật quan tâm.
Ở Việt Nam, vấn đề lí thuyết đối thoại đã được các học giả
quan tâm và giới thiệu thông qua công trình Lý luận và thi pháp tiểu
thuyết của Bakhtin - biên soạn bởi dịch giả Phạm Vĩnh Cư (1992).
Qua đó, các nhà nghiên cứu đã tiệm cận một cách khá cơ bản về tính
năng lý thuyết đối thoại trong định hình bản mệnh tác phẩm.
Tiếp đến là công trình dịch thuật Những vấn đề thi pháp
Dostoievski (1993) của nhóm dịch giả Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân,
Vương Trí Nhàn. Ở công trình này, M. Bakhtin đã giải mã tiểu thuyết
Dostoievski trên nhiều phương diện: tiểu thuyết đa thanh; nhân vật và
lập trường tác giả, tư tưởng; đặc điểm về thể loại và kết cấu - cốt
3
truyện; lời văn. Và vấn đề cơ bản mang tính xuyên suốt được chi
phối bởi tính đối thoại chính là sự thể hiện cho những cách tân trong
tư duy tiểu thuyết Dostoievski.
Đỗ Đức Hiểu trong công trình Thi pháp hiện đại (2000), dựa
trên tinh thần của M. Bakhtin, khi bàn về thi pháp tiểu thuyết cũng đã
nhấn mạnh tính đa âm, hay tính đối thoại - một trong những đặc
trưng của thể loại tiểu thuyết.
Năm 2006, dịch giả Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào giới thiệu
công trình Bản mệnh của lý thuyết của tác giả A. Compagnon. Ở
công trình này, A. Compagnon bàn về đối thoại Bakhtin trong sự
xem xét triển nghĩa sang thuật ngữ liên văn bản Kristeva. Tác giả
cuốn sách còn cho rằng: tính liên văn bản mà J. Kristeva gọi tên được
phỏng in cái mà Bakhtin gọi là tính đối thoại.
Tiếp đó là những bài viết, nghiên cứu về tính đối thoại trong
văn học được nhận diện trên một số khía cạch khác nhau. Nguyễn
Thị Ngân Hoa với bài viết “Các nhân tố biểu đạt tính đối thoại nội
tại của diễn ngôn truyện kể” (2014), Nguyễn Thị Thanh Hương với
bài viết “Đối thoại và tình huống đối thoại trong truyện” (2014).
Phùng Phương Nga với bài viết “Liên văn bản và vấn đề đối thoại tư
tưởng trong văn xuôi đương đại Việt Nam” (2014). Nguyễn Phượng
với bài viết “Tinh thần dân chủ và tư duy đối thoại trong văn học
Việt Nam sau 1975” (2015).
Bên cạnh mảng dịch thuật và nghiên cứu văn học, lí thuyết đối
thoại còn được đề cập trong một số công trình luận văn, luận án như:
Đối thoại trong ba tiểu thuyết Thời xa vắng (Lê Lựu), Bến không
chồng (Dương Hướng), và Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) của
Phạm Thị Thúy Vinh; Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh nhìn
từ lý thuyết đối thoại của Lê Thị Tuyết; Tính đối thoại trong tiểu
4
thuyết Đỗ Phấn của Nguyễn Thị Thủy Tiên; Tính đối thoại trong tiểu
thuyết Nguyễn Khải của Thái Thị Trang.
2.2. Những bài viết, nghiên cứu liên quan đến tính đối thoại
trong truyện ngắn Nam Cao
Nghiên cứu về tính đối thoại trong truyện ngắn Nam Cao thì
gần đây đã có một số bài viết đề cập đến một số phẩm chất ưu việt
của lí thuyết đối thoại trong tiếp nhận tác phẩm văn chương. Trần
Đình Sử với bài viết Cấu trúc đối thoại trong Chí Phèo của Nam
Cao.Trong bài viết Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao từ góc
nhìn diễn ngôn thể loại, tác giả Nguyễn Thanh Trường.
Nhìn chung, việc vận dụng lý thuyết đối thoại để khám phá
truyện ngắn Nam Cao của các công trình bài viết nêu trên mới dừng
lại ở những ý kiến, nhận định, đánh giá ở một số khía cạnh nhất định.
Tuy nhiên, đây là những gợi ý quý báu giúp cho chúng tôi tiếp tục
triển khai nghiên cứu vấn đề này trong một hệ thống.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là Tính đối thoại trong
truyện ngắn Nam Cao. Trên tinh thần này, chúng tôi tập trung làm rõ
bản chất của các hình thái cấu trúc đối thoại ở các phương diện: xác
lập quyền năng nhân vị/ trong lời văn và giọng điệu/ trong sự tương
tác giao thoa thể loại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát các truyện ngắn trước Cách mạng của
Nam Cao được tuyển chọn trong cuốn Nam Cao truyện ngắn tuyển
chọn, Nxb Văn học, năm 2016. Ngoài ra, luận văn còn khảo sát một
số truyện ngắn của các tác giả khác liên quan đến phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu:
- Phương pháp thi pháp học:
- Phương pháp tự sự học:
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Nội dung gồm có 3 chương:
Chương 1: Tính đối thoại trong truyện ngắn 1930 - 1945 và
hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao
Chương 2: Tính đối thoại trong truyện ngắn Nam Cao nhìn từ
phương diện lời văn và giọng điệu
Chương 3: Tính đối thoại trong truyện ngắn Nam Cao nhìn từ
phương diện tương tác thể loại
6
CHƢƠNG 1
TÍNH ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN 1930 – 1945
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
CỦA NAM CAO
1.1. Tính đối thoại trong truyện ngắn 1930 - 1945
1.1.1. Hình thái tính đối thoại
Đối thoại trong văn học là đối thoại nghệ thuật đảm nhiệm
chức năng thẩm mỹ bao gồm hai bình diện lời kể và hội thoại. Tuy
nhiên trước đó, vấn đề đối thoại mới được các nhà phê bình quan
tâm, khai thác ở mảng thô, tức phần ngôn ngữ của văn bản. Thế kỷ
XX với lý thuyết đối thoại của Mikhail Bakhtin, vấn đề đối thoại
trong văn chương nghệ thuật đã được đẩy sâu đến phần ý thức: các
quan hệ đối thoại của ý thức con người. Với lý thuyết này, Bakhtin
đã nêu lên bản chất đối thoại của ý thức và ngôn ngữ, vạch ra các
hình thức đối thoại, từ đó đặt nền móng cho việc phân tích ngôn từ
nghệ thuật theo những bình diện mới.
Như vậy có thể hiểu, tính đối thoại là một thuật ngữ khái niệm
vừa dẫn chỉ cho các hình thức biểu đạt trong những mối quan hệ
tương tác giữa các văn bản văn học, vừa cụ thể hóa tính chất của mọi
kiểu loại văn bản. Tính đối thoại trong quan niệm của Bakhtin còn
được dẫn giải dưới hình thức tính liên chủ thể. Trong đó, Kristeva
phát triển nguyên lí này dưới những dạng thức chuyển vị mang tính
liên văn bản, và Barthes đặt hình thái cấu trúc đối thoại trong trường
lực của tính đa bội. Qua quá trình khơi dòng và thực nghiệm lý
thuyết, có thể nhận thấy tính ưu việt trong lý thuyết đối thoại của
Bakhtin như là một trong những khung tri thức chính yếu góp phần
quan trọng soi chiếu, giải mã các hiện tượng văn học.
7
1.1.2. Tính đối thoại trong truyện ngắn 1930 - 1945
Trên tinh thần kế thừa và vận dụng lý thuyết tính đối thoại của
Mikhail Bakhtin, soi chiếu vào truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945,
chúng tôi bước đầu nhận diện được một số nét đặc sắc của hình thái
đối thoại quy định cách xây dựng lời văn, ý thức nhân vật và các yếu
tố khác của tác phẩm truyện ngắn thuộc các sáng tác của một số nhà
văn trong giai giai đoạn này.
Tính đối thoại của truyện ngắn giai đoạn này còn thể hiện ở
bình diện tư duy nghệ thuật. Đó chính là ý thức sáng tạo nên các
đường biên giao thoa, tương tác thể loại. Đặc biệt với Nam Cao, bên
cạnh việc thiết lập ý thức đối thoại trong tinh thần nhân vật bằng
nhiều hình thức khác nhau, nhà văn còn xác lập tính đối thoại thông
qua việc tạo dựng tình huống độc đáo, xây dựng nhiều chi tiết tạo
chuyện trong trường đối thoại không hoàn kết.
Như vậy, qua khảo sát truyện ngắn 1930 - 1945 cho thấy tư
duy đối thoại đã xuất hiện khá rõ nét trong truyện ngắn Việt Nam
hiện đại ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX. Tuy nhiên, không
thể phủ nhận nguyên lí đối thoại gắn liền sự phát triển của một thời
đại văn học 1930 - 1945 đã thực sự in dấu ấn đậm nét trong tư duy
nghệ thuật của một bộ phận các nhà văn tài năng, mang đậm cá tính
sáng tạo.
1.2. Hành trình sáng nghệ thuật của Nam Cao - một lối xác lập
quyền năng nhân vị trong ý thức đối thoại
Con người trong văn học vừa là sản phẩm của văn hóa tư
tưởng, vừa là sự khám phá về hiện thực đời sống mang cá tính sáng
tạo của nghệ sĩ. Nhà văn hào Đức W. Goethe có nói: “Con người là
điều thú vị nhất đối với con người và con người cũng chỉ hứng thú
với con người”. Lấy con người làm đối tượng phản ánh, Nam Cao đã
8
xem con người như điểm tựa để nhìn ra thế giới và thấu dọi vào
chính cá nhân con người. Chính vì vậy những con người bước ra từ
trang sách của Nam Cao được hiện diện với tất cả những mặt đối lập,
phức tạp đa chiều. Nam Cao đã “đập vỡ cái nhìn phiến diện, tĩnh tại
để tạo ra một cái nhìn phức tạp hơn, đa chiều hơn và vì thế sâu sắc
hơn về con người”.
1.2.1. Nhân vị cô độc trong vòng xoáy định mệnh
Với ý thức đề cao giá trị tinh thần nơi hữu thể, ngòi bút Nam
Cao luôn coi trọng những thị phần nằm sâu trong nhân vị người - nơi
khu trú của mọi nguồn ý thức làm nên cái gọi là “chất người”. Theo
đó, thế giới hình tượng các nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao
được tái cấu trúc trên những trục dẫn đặc biệt.
Thực nghiệm truyện ngắn Nam Cao, chúng tôi nhận thấy hầu
hết con người trong nhiều trang viết của ông luôn đối diện trước
những hoàn cảnh sống đầy trớ trêu. Họ là những con người nhỏ bé,
số phận gắn chặt với những bi kịch tinh thần mà nguyên do cũng bởi
cái đói, miếng ăn, sự áp bức bóc lột tàn tệ của giai cấp thống trị.
Bằng cái nhìn hiện thực sâu sắc, Nam Cao dường như cho
người đọc hiểu rõ hơn bao giờ hết về số phận người nông dân trước
Cách mạng tháng Tám. Ở đó, con người thường được đặt trong
những khung ngữ cảnh gắn với sắc thái thẩm mỹ nhất định. Và chính
trong không gian đó, nhà văn cho bản mệnh nhân vật được đối thoại
tự do nhất với cuộc đời
Mỗi nhân vật của Nam Cao đều có một cuộc đời, một số phận
và một hoàn cảnh sống khác nhau nhưng chung quy lại họ đều là
những con người được tạo hóa ban cho một số phận khắc khổ, tù
túng đến ngột ngạt. Dường như cuộc sống của họ không có một tia hi
9
vọng nào để đổi đời. Họ cô độc trong vòng xoáy định mệnh, đơn độc
cố vùng vẫy để mong thoát khỏi số mệnh.
1.2.2. Nhân vị lạc lõng trong hoài nghi, bế tắc
Xuất phát từ ý thức đối thoại thông qua các tình huống truyện,
Nam Cao đã miêu tả lại những ẩn ức trong tinh thần của nhân vật: lạc
lõng, hoài nghi, bế tắc. Nhân vật của Nam Cao dù là người nông dân
nghèo hay trí thức thì đều là những con người luôn suy tư về mọi nhẽ
trong cuộc đời. Họ là những con người lắm trăn trở, nhiều sự giằng
xé trong nội tâm mà không ai có thể hiểu được để tỏ bày. Họ cô đơn
ngay giữa cái xã hội mà mình đang sống với những nỗi hoài nghi
chất chồng.
Hình ảnh con người trong truyện ngắn của Nam Cao khiến
người đọc không khỏi day dứt, trăn trở. Bởi, về bản chất, họ là những
con người hiền lành, chất phác, lương thiện, thật thà và chăm lo làm
ăn, cần mẫn kiếm sống. Nhưng định mệnh trớ trêu của hoàn cảnh đã
khiến họ biến chất trở thành kẻ tha hóa, chính cái hình thái xã hội vô
nhân tính ấy còn là nguyên cớ đẩy con người vào bước đường túng
quẫn, khiến con người bị chà đạp, bị bần cùng hóa, bị ném ra ngoài
mép lề của đời sống.
1.2.3. Nhân vị khát khao trong níu kéo trở về cõi ngƣời
Điều trân trọng đối với nhiều nhân vật trong truyện ngắn của
Nam Cao cho dù họ phải đối diện với thực tại bế tắc, hay chìm khuất
trong vũng lầy tha hóa thì nơi thẳm sâu của thế giới tinh thần những
nhân vật này vẫn luôn mong muốn hướng về trú ngụ của hơi ấm tình
yêu thương con người. Do đó, hình thái cấu trúc đối thoại trong cách
thức tổ chức nhân vật của truyện ngắn Nam Cao còn được thể hiện ở
khía cạnh nhân vị khát khao níu kéo trở về với cõi người.
10
Như vậy, trên hành trình vật vã trong đau đớn, níu kéo “nhân
vị người”, nhiều nhận vật trong truyện ngắn Nam Cao dường như “cô
độc” trong đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã của xã hội. Theo đấy,
để giữ gìn phẩm hạnh không bị tha hóa, biến chất họ buộc phải chọn
cái chết – con đường duy nhất để được trở lại làm người.
Như vậy, từ cái nhìn xuyên thấm vào thế giới tinh thần, Nam
Cao không soi chiếu nhân vật trong sự vận động một chiều mà dẫn
giải cho hình thái của nó khu biệt hóa qua nhiều lằn ranh đối thoại đa
chiều, gắn với nhiều mối quan hệ khác nhau và đặc biệt hơn cả là đề
cao phận nhiệm người xã hội.
Tiểu kết
Ở chương một, chúng tôi giới thiệu sơ lược hình thái tính đối
thoại theo lý thuyết đối thoại của M. Bakhtin và các nhà tường giải
cấu trúc. Trên cơ sở lựa chọn, kết hợp những luận giải về hình thái
tính đối thoại của các nhà nghiên cứu, chúng tôi đưa ra những luận
điểm làm điểm tựa lý thuyết cho việc khai triển tính đối thoại trong
truyện ngắn Nam Cao. Thứ nhất, đối thoại là ý thức tư duy của con
người và là lĩnh vực sinh tồn của con người. Thứ hai, đối thoại là một
cấu trúc liên chủ thể, liên văn bản. Thứ ba, đối thoại biểu hiện ý thức
hệ, tư tưởng, văn hóa của thời đại. Từ những luận điểm mấu chốt ấy,
chúng tôi vận dụng để khai thác tinh thần đối thoại trong truyện ngắn
Việt Nam 1930 – 1945. Cũng ở chương này, chúng tôi khảo sát quá
trình sáng tạo nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao - một lối xác lập
quyền năng nhân vị trong ý thức đối thoại để bước đầu nhận diện
được tính đối thoại trong truyện ngắn Nam Cao. Nhà văn tổ chức
nhân vật theo lối cấu trúc đối thoại bằng cách đưa nhân vật vào
“vòng xoáy định mệnh”, khai thác những ẩn ức của nhân vật, và níu
11
kéo nhân vật trở về với cõi nhân sinh nhằm để nhân vật tự bộc lộ bản
ngã đa chiều của mình. Con người trong quan niệm của Nam Cao là
con người hiện diện với tất cả các mặt đối lập: vừa đẹp đẽ vừa xấu
xa, vừa cao thượng vừa tầm thường nhỏ nhen, vừa nhân đạo vừa độc
ác, vừa đáng khinh vừa đáng trọng. Và đặc biệt, các nhân vật của
Nam Cao đều biết vượt lên chính mình để đến với phần tốt đẹp nhất
thuộc về Con người.
CHƢƠNG 2
TÍNH ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN LỜI VĂN VÀ GIỌNG ĐIỆU
2.1. Đối thoại trong ý thức lời văn
Mỗi tác phẩm văn chương đều được tạo nên bởi thế giới ngôn
từ nghệ thuật đặc sắc của người nghệ sĩ. Và lời văn là yếu tố đầu tiên
kiến tạo nên những mạch nguồn thẩm mĩ cho tác phẩm. Chính vì thế,
các nhà văn không ngừng nỗ lực sáng tạo để hình thức lời văn phát
huy cho thế mạnh công năng của chính nó trong việc góp phần làm
bật nổi chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
2.1.1. Lời tham thoại trực tiếp
Lời tham thoại trực tiếp được xem là “lời do nhân vật hoặc do
tác giả - những con người trực tiếp nói lên trong tác phẩm” Trong đó,
lời trực tiếp của nhân vật được biểu hiện ở hai dạng cơ bản là đối
thoại trực tiếp giữa các nhân vật trong tác phẩm với nhau và lời nội
tâm (độc thoại nội tâm và đối thoại nội tâm) của nhân vật khi tự nói
với chính mình. Còn lời trực tiếp của cái tôi tác giả thường thuộc về
những đoạn trữ tình ngoại đề, hay những lời phẩm bình, triết lý.