Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tín ngưỡng của người Ba Na (huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----o0o-----
Trung Thị Thu Thủy
TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA
(HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội – 2014
2
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----o0o-----
Trung Thị Thu Thủy
TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA
(HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI)
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 62317005
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS Nguyễn Xuân Kính
PGS. TS Bùi Văn Đạo
Hà Nội - 2014
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản luận án tiến sĩ:
TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA
(HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI)
Là do tôi viết, mọi trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày tháng 02 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trung Thị Thu Thủy
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 5
Chƣơng 1: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, LÝ THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP
VÀ TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9
1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 22
1.3. Khái quát về ngƣời Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai 38
Tiểu kết chƣơng 1 57
Chƣơng 2: HỆ THỐNG TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG
CHRO, TỈNH GIA LAI 59
2.1. Thế giới quan của ngƣời Ba Na 59
2.2. Hệ thống các thần linh 61
2.3. Các biểu hiện của tín ngƣỡng đa thần của ngƣời Ba Na 77
Tiểu kết chƣơng 2 116
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ, SỰ BIẾN ĐỔI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI TÍN
NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI
TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐƢƠNG ĐẠI 117
3.1. Tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh xã hội
đƣơng đại - sự va chạm và những biến đổi 117
3.2. Gía trị của tín ngƣỡng trong đời sống của ngƣời Ba Na, huyện Kông Chro,
tỉnh Gia Lai 137
3.3. Những vấn đề đặt ra cho bảo tồn và phát huy các hình thức tín ngƣỡng trong
đời sống của ngƣời Ba Na huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh đƣơng đại 151
Tiểu kết chƣơng 3 161
KẾT LUẬN 163
KHUYẾN NGHỊ 166
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 168
TÀI LIỆU THAM KHẢO 169
PHỤ LỤC 176
5
177
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngƣời Ba Na là một trong những dân tộc tại chỗ sinh sống lâu đời trên cao
nguyên trung phần miền Tây của Tổ quốc. Đây là dân tộc thiểu số có dân số lớn thứ ba ở
Tây Nguyên sau hai dân tộc thiểu số Gia Rai và Ê Đê, còn nếu tính trong số các dân tộc
nói ngôn ngữ Môn – Khơ me ở Tây Nguyên thì ngƣời Ba Na là dân tộc có dân số lớn
nhất. Hiện nay ngƣời Ba Na có khoảng trên 200.000 dân (năm 2009), sống tập trung ở 2
tỉnh Gia Lai, Kon Tum và một bộ phận ở các huyện miền núi các tỉnh Bình Định và Phú
Yên. Do những lý do và đặc điểm riêng, dân tộc Ba Na không chỉ nổi tiếng về truyền
thống yêu nƣớc chống giặc ngoại xâm, theo Đảng theo cách mạng mà còn đƣợc biết đến
nhƣ là một trong số ít các dân tộc Tây Nguyên cho đến nay còn bảo lƣu đậm nét nhiều
yếu tố văn hóa Môn – Khơ me truyền thống.
Nửa cuối thế kỷ XIX, xã hội của cƣ dân bản địa Tây Nguyên nói chung, ngƣời Ba
Na nói riêng đang ở giai đoạn cuối của thời kỳ công xã nguyên thủy. Trong giai đoạn phát
triển đó, văn hóa tinh thần của ngƣời Ba Na chịu ảnh hƣởng, bị chi phối và tác động rất
lớn của tín ngƣỡng nguyên thủy vạn vật hữu linh. Tín ngƣỡng là sản phẩm của xã hội cổ
truyền, gắn với hình thái kinh tế - xã hội tiền công nghiệp, gắn với cơ cấu xã hội mà làng
giữ vai trò then chốt và cơ bản. Tín ngƣỡng hàm chứa trong đó các giá trị, là sợi dây cố kết
các thành viên và cộng đồng, điều hòa các mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên.
Hơn một thế kỷ qua, đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Ba Na huyện Kông
Chro, tỉnh Gia Lai, trong đó có đời sống tín ngƣỡng, đã có nhiều biến đổi lớn trƣớc tác
động của các điều kiện mới. Hệ quả của sự biến đổi đó đã ảnh hƣởng lớn đến văn hóa,
an ninh chính trị của địa phƣơng. Nếu không giải quyết tốt bài toán tín ngƣỡng thì Kông
Chro cũng sẽ nhƣ các nơi khác của Tây Nguyên đối mặt với những phức tạp thể hiện ở
sự đan xen, pha trộn, thậm chí có cả xung đột với văn hóa, tín ngƣỡng truyền thống và
đời sống xã hội, chính trị... Vì vậy, có song đề đƣợc đặt ra là: một mặt, phải đảm bảo cho
đƣợc quyền tự do tín ngƣỡng của nhân dân; mặt khác, phải tiếp tục định hƣớng và quản
lý nhà nƣớc để hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo tuân thủ pháp luật, vừa phát huy những
6
giá trị tích cực vừa góp phần bảo tồn những bản sắc văn hóa của dân tộc nơi đây. Đây là
hai vấn đề đang đặt ra vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lƣợc lâu dài.
Về mặt xã hội và an ninh chính trị, các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên hiện nay trong đó
có ngƣời Ba Na đang “yên” nhƣng chƣa “ổn”. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này
trong đó phải kể đến nguyên nhân khủng hoảng niềm tin và sự phát triển không bình thƣờng
của Công giáo, Tin lành, Hà mòn. Nghiên cứu tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na nhằm góp phần
ổn định xã hội, củng cố an ninh chính trị, là nhu cầu cấp thiết cần giải quyết để phát triển
bền vững các dân tộc thiểu số tại chỗ nói riêng và Tây Nguyên nói chung hiện nay.
Tín ngƣỡng, tự bản thân nó luôn hàm chứa những giá trị văn hóa, giá trị đạo đức,
giá trị lối sống… làm nên diện mạo của một cộng đồng. Trong bối cảnh của xã hội
đƣơng đại, vấn đề đặt ra là cần có những phƣơng cách lƣu giữ, phát huy những yếu tố
tích cực của tín ngƣỡng, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội; loại bỏ dần những hủ
tục, mê tín tiêu cực, không phù hợp thậm chí là kìm hãm tiến bộ xã hội hiện nay để góp
phần bảo tồn văn hóa, ổn định an ninh chính trị đồng thời tạo nên sự phát triển bền vững
của một tộc ngƣời, là những vấn đề thực sự cần đƣợc quan tâm. Vì vậy chúng tôi chọn
đề tài: “Tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na (huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai)” cho đề tài
luận án của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu chung của luận án là giới thiệu một cách hệ thống và toàn
diện về bức tranh tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Ba Na nhằm góp phần làm sáng rõ
đặc trƣng văn hóa của ngƣời Ba Na ở Kông Chro tỉnh Gia Lai; đồng thời chỉ rõ những
biến đổi trong tín ngƣỡng, lý giải nguyên nhân tác động đến những biến đổi đó và một
số vấn đề đặt ra trong bối cảnh từ sau 1975 đến nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể
2.2.1. Làm sáng tỏ một cách hệ thống và toàn diện bức tranh tín ngƣỡng truyền
thống nhƣ là một khía cạnh quan trọng của văn hóa tộc ngƣời Ba Na đƣợc coi là đặc trƣng
tiêu biểu cho văn hóa truyền thống các dân tộc nói ngôn ngữ Môn – Khme ở Tây Nguyên.
2.2.2. Xác định và phân tích, đánh giá một số giá trị của tín ngƣỡng trong đời
sống của ngƣời Ba Na.
7
2.2.3. Phân tích, lý giải qúa trình biến đổi và các nguyên nhân gây biến đổi tín
ngƣỡng của ngƣời Ba Na từ sau 1975 đến nay và những vấn đề đặt ra cho phát triển kinh
tế - xã hội dân tộc Ba Na trong bối cảnh phát triển bền vững.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là dân tộc Ba Na và các khía cạnh đời sống tín
ngƣỡng truyền thống của ngƣời Ba Na tại huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tín ngƣỡng là một vấn đề rất rộng và khó, đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu và
tâm huyết mới có thể khái quát lên diện mạo của nó trong đời sống tinh thần của một tộc
ngƣời. Vì vậy, khi chọn đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sâu ở các khía cạnh:
quan niệm về sự phân tầng vũ trụ hay ý niệm về thế giới của ngƣời Ba Na; thần và ma;
linh hồn; điềm báo (giấc mơ; điềm báo từ những con vật, cây cối...); những điều kiêng
kị; hiện tƣợng ma thuật và bói toán; vai trò của thầy cúng (pơ jâu, gru) trong đời sống
tinh thần của ngƣời Ba Na; những lễ thức để thấy đƣợc vai trò của tín ngƣỡng trong đời
sống của ngƣời Ba Na, giá trị của tín ngƣỡng nhƣ một mạch ngầm cố kết các thành viên
của cộng đồng.
3.3. Địa bàn nghiên cứu
Địa bàn khảo sát chính của chúng tôi là những làng của ngƣời Ba Na tại huyện
Kông Chro tỉnh Gia Lai nhƣ làng Tơ Nung, làng Măng (xã Ya Ma); làng Nhang lớn, làng
Nhang nhỏ, làng Htiêng (xã Đăk Kơ Ning); làng Tpông1, làng Rơng, làng Kun1, (xã Yang
Nam); làng Nghe Lớn, làng Bjang (thị trấn Kông Chro); làng Meo lớn, làng Meo nhỏ (xã
Đak Pling); làng Kuel, làng Kuk, làng Sơ Ró (xã Sơ Ró). Bên cạnh đó chúng tôi cũng có
những so sánh với một số làng của ngƣời Ba Na tại các huyện Kbang (làng Hà Nừng, làng
Stơr); thị trấn Đăk Đoa (làng Dur, làng Klăk, làng Ngol, làng Pi ơm) thuộc tỉnh Gia Lai;
làng Kon Kơ tu, KonTum Kơ pâng, Konjodri, thuộc thành phố Kon Tum (tỉnh Kon Tum)
để thấy những tƣơng đồng và dị biệt trong tín ngƣỡng và biến đổi tín ngƣỡng của các nhóm
Ba Na ở các địa phƣơng khác nhau.
4. Đóng góp mới của đề tài
4.1. Đóng góp về mặt khoa học
8
4.1.1. Làm phong phú thêm những vấn đề lý thuyết và khái niệm liên quan đến tín
ngƣỡng truyền thống ở các cƣ dân tiền công nghiệp nói chung và các cƣ dân nói ngôn
ngữ Môn - Khme nói riêng ở Việt Nam.
4.1.2. Cung cấp các tƣ liệu mới góp phần làm sáng tỏ diện mạo tín ngƣỡng truyền
thống của các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Môn – Khơ me nói riêng góp phần tìm hiểu
văn hóa của các dân tộc trong quốc gia Việt Nam đa tộc ngƣời.
4.1.3. Làm sáng tỏ một số đặc trƣng và giá trị văn hóa xã hội của tín ngƣỡng Ba Na.
4.1.4. Góp phần lý giải một số vần đề về quan hệ giữa tín ngƣỡng với văn hóa và
sinh kế, tín ngƣỡng với nông nghiệp du canh, tín ngƣỡng với xã hội và mối quan hệ giữa
tín ngƣỡng với các khía cạnh khác của đời sống dân tộc Ba Na.
4.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
4.2.1. Làm rõ những biến đổi trong tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na dƣới tác động của
các điều kiện mới
4.2.2. Nhận diện những tác động tích cực và tiêu cực của biến đổi tín ngƣỡng đến
phát triển kinh tế - xã hội theo hƣớng bền vững.
4.2.3. Gợi mở một số đề xuất làm cơ sở khoa học góp phần xây dựng chính sách
bảo tồn, phát huy các giá trị tín ngƣỡng nói riêng, văn hóa nói chung trong bối cảnh phát
triển bền vững ở tộc ngƣời Ba Na cũng nhƣ các dân tộc thiểu số khác tại Tây Nguyên.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án đƣợc chia làm 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Tình hình nghiên cứu, lý thuyết, phƣơng pháp và tổng quan về ngƣời
Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai
Chƣơng 2: Hệ thống tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai
Chƣơng 3: Gía trị, sự biến đổi và những vấn đề đặt ra với tín ngƣỡng của ngƣời
Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh xã hội đƣơng đại.
9
Chƣơng 1: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, LÝ THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP VÀ
TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na
Văn hóa của dân tộc Ba Na là một trong những di sản văn hóa phong phú trong
kho tàng văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam, là một mảng màu làm nên sự đa dạng, sinh
động trên bức tranh toàn cảnh của bản sắc văn hóa Việt Nam. Với nhiều lớp văn hóa tích
tụ, bồi đắp trong quá trình lịch sử dài lâu, tín ngƣỡng Ba Na cho đến nay vẫn luôn là đối
tƣợng hấp dẫn của các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nƣớc.
1.1.1.1. Các nghiên cứu của tác giả nƣớc ngoài
Tây Nguyên là vùng đất thu hút sự quan tâm của các học giả ngƣời Pháp khi lần
đầu tiên họ đặt chân đến đây. Những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên nói chung và
về tín ngƣỡng của ngƣời Tây Nguyên nói riêng đã đƣợc họ nghiên cứu ngay từ nửa sau
thế kỷ XIX. Văn hóa Ba Na thực sự là niềm hứng thú nghiên cứu dân tộc học đƣợc
nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với chủ yếu là những ngƣời Pháp thuộc
Hội Truyền giáo, các sĩ quan quân đội, quan chức hành chính của chính quyền thuộc địa,
những nhà thám hiểm, những chủ đồn điền, và một số học giả chuyên làm công tác
nghiên cứu. Dẫu cho mục đích nghiên cứu có khác nhau nhƣng những công trình mà họ
để lại là cả một kho tƣ liệu quý giá để chúng ta có thể có cái nhìn đầy đủ hơn về vùng
đất, văn hoá, con ngƣời nơi đây.
J. Pierre Combes là linh mục đầu tiên lên truyền giáo tại Tây Nguyên. Khoảng năm
1833, ông khởi viết công trình nghiên cứu dân tộc học tổng quát đầu tiên về ngƣời Ba Na.
Công trình tiếp theo là Dân Làng Hồ ( Les sauvages Bahnars) [32] của linh mục
P.Durisboure (ngƣời có 35 năm sống ở vùng dân tộc Ba Na) đƣợc công bố năm 1873.
Có thể coi đây là học giả ngƣời Pháp đầu tiên quan tâm đến tín ngƣỡng của ngƣời Ba
Na. Công trình này đƣợc ông khởi viết tại một vùng rừng núi Bắc Tây Nguyên vào năm
1865 để rồi sau đó hoàn thành tại Chủng viện Hội Thừa sai Pari ngày 28/1/1873. Đây là
cuốn sách viết về buổi đầu trong hành trình truyền giáo lên cao nguyên của các giáo sĩ
phƣơng Tây thế kỉ XIX. Công trình đề cập khá nhiều đến địa lí, nhân văn; những miêu
tả, nhận xét về cây cỏ, muông thú, về số dân, các nhóm sắc tộc; hoạt động mƣu sinh,
việc rèn đao kiếm, khai thác mỏ,… của các dân tộc bắc Tây Nguyên. Tín ngƣỡng dân
10
gian, những phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số cũng đƣợc đề cập nhƣ tục
kiêng cữ, cấm đoán, một phần những qui định bất thành văn là sức mạnh “pháp lí” của
cộng đồng,... là những tƣ liệu quan trọng cho các nhà nghiên cứu đi sau muốn tìm hiểu
về các dân tộc sống xung quanh cũng nhƣ ngƣời Ba Na; các miêu tả, nhận xét, bản đồ
trong công trình này thực sự có giá trị cho sự tham khảo ngày nay.
Tiếp đến là linh mục Jean-Baptiste Guerlach với các công trình đáng chú ý nhƣ
Vùng ngƣời Bahnar hoang dã (Chez les sauvages Bahnars) viết năm 1884, Phong tục mê
tín của ngƣời Bahnar hoang dã (Mœurs et superstitions des sauvages Bahnars) viết năm
1887, Kết hôn và lễ cƣới của ngƣời Bahnar (Mariages et cérémonies des noces chez les
Bahnars) viết năm 1901, Tang lễ của ngƣời Bahnar (Funérailles chez les Bahnars) viết
năm 1903…[43].
Đến những thập niên đầu thế kỷ XX, xuất hiện thêm một số ấn phẩm trong đó có
đề cập đến tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na. Năm 1909, nhà truyền giáo M.J.Kemlin công
bố chuyên khảo: “Những lễ thức nông nghiệp của ngƣời Reungao” (Les rites agraires
des Reungao) [58] đăng trên tập san của Viện Viễn Đông Bác Cổ, trong đó, ngoài việc
giới thiệu khái quát tình hình văn hoá - xã hội của tộc ngƣời bản địa, ông còn đặc biệt
chú ý đến phong tục tập quán liên quan đến tín ngƣỡng nông nghiệp của nhóm ngƣời Ba
Na Rơ ngao vùng Kon Tum nhƣ lễ vật dâng cúng, những lời khấn, những kiêng kị, bói
toán, trình tự tiến hành các nghi lễ trong lễ thức nƣơng rẫy...
Năm 1910, một công trình khác có tên: “Những giấc mộng và việc giải thích
những giấc mộng của ngƣời Reungao” (Les Songes et leur interpretation chez les
Reungao) [59] của ông đƣợc công bố. Trong công trình này, ông lí giải nguyên nhân mà
ngƣời Ba Na tin vào giấc mơ nhƣ sau:
“Iôn kô” hay “iôn tau” là “từ bên nầy” cũng nhƣ “từ bên kia” mà chính hồn
thấy, và hành động trực tiếp hoặc gián tiếp qua thân xác. Nhƣ vậy có những
lý do để tin vào hiện thực của giấc chiêm bao của chúng ta, cũng nhƣ có
những lý do để tin vào tính khách quan của điều ta thấy, nghe và hành động
trong trạng thái thức vậy... Tuy nhiên, chúng ta cũng lƣu ý là nền tảng của
lòng tin này còn sâu xa hơn, và đƣợc đặt trên quan niệm „lấy cái tôi làm
chuẩn‟, mà ngƣời thƣợng gán cho vũ trụ. Khi thấy vô số sự bất bình đẳng và
những chuyện kỳ quặc của thiên nhiên làm cho họ không giải thích nổi, tự
11
nhiên họ đâm ra tƣởng tƣợng nguyên nhân của chúng nằm trong biện chứng
nội tại nơi từng sự vật, một sự xung đột biến đổi từng ngày và từng hoàn
cảnh, nhƣ tính khí của ngƣời vậy. Nói tắt, họ đã thấy trong mọi vật thể một
chủ thể đƣợc sinh động nhƣ họ và có cùng đam mê nhƣ họ [59, tr. 17].
Và những giấc mơ luôn khiến các nhóm ngƣời Ba Na thật sự quan tâm khi nó
liên quan đến lúa, buôn bán, câu cá và săn bắn, một ngôi làng hay một ngôi nhà, đánh
trận, bệnh tật và tử vong, đám cƣới.
Đến công trình “Tục kết thân của ngƣời Rơngao” (Alliances chez les Reungao)
[60] viết năm 1917, ông lại nhấn mạnh thêm cơ sở cho tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na:
Nói cách khác, tất cả mọi vật đều có nguyên lý sống động và tác động đối
với thế giới con ngƣời. Cái nguyên lý đó là “hồn” đƣợc ngƣời Bahnar gọi
là “pơhngol” hay “pơngol”. Sức lực của nguyên lý sống động đó đƣợc gọi
là “ai”. “Ai” của con ngƣời có tác động ảnh hƣởng trên con vật và đồ vật,
và ngƣợc lại. “Ai ” của con vật hoặc đồ vật hợp với “ai” của ngƣời nào đó,
mọi sự đều tốt đẹp; mà ngƣợc lại sẽ đổ vỡ, bất thành, là không ích lợi. Với
quan niệm đó, việc đặt tên buôn làng rất quan trọng để cho có sự hòa hợp
giữa các “ai” với nhau, nghĩa là giữa các hồn với nhau.
Mặt khác, cũng theo quan niệm của ngƣời dân tộc, một ngƣời giàu có, một
ngƣời tài giỏi, một ngƣời đứng đầu, một thủ lãnh, ông vua chẳng những có
một “mơhol” chính, mà còn nhiều “mơhol” phụ, tự nhƣ đoàn quân gìn giữ
nhà cửa tài sản. Hồn của họ sau khi ra khỏi thân xác có thể thành một loại
thần, dân làng có thể kêu khấn, trong khi đó, hồn của thứ dân xuống
“mang lung” (Âm ti). Do đó, ngƣời dân tộc thƣờng đặt tên làng theo tên
ngƣời lập làng cũng là việc thích hợp và hữu ích để “ai” của ông giúp dân
làng do ông đã vất vả xây dựng. [60, tập X, số 3].
Ở công trình này, ông cũng đã dụng công miêu tả khá kĩ các lễ thức trong nghi lễ
kết nghĩa liên minh của tộc ngƣời này. Đây có thể xem là những công trình có giá trị tƣ
liệu tham khảo, đặt nền móng cho việc nghiên cứu chuyên sâu về tín ngƣỡng và tộc
ngƣời trên vùng đất Tây Nguyên.
Cùng với M.J.Kemlin, H.Maitre cũng cho công bố các công trình của mình nhƣ:
Khu vực của ngƣời Mọi ở Nam Đông Dƣơng - Cao nguyên Đắc Lắc năm 1909. Đến năm
12
1912, H.Maitre lại cho ra đời cuốn sách khá dày dặn, công phu mang tên Rú Mọi, ở đây
ông cũng đã cho công bố những tƣ liệu mới nói về một số tộc ngƣời nói ngôn ngữ Môn
– Khơ me ở Bắc Tây Nguyên cũng nhƣ phản ánh đời sống của cƣ dân nơi đây. Tuy có
đề cập ít nhiều đến tín ngƣỡng, tôn giáo của các dân tộc trên vùng đất cao nguyên này
nhƣng H. Maitre lại không có những phân tích về niềm tin tôn giáo của ngƣời Tây
Nguyên. Cuốn sách của Henri Maitre cho chúng ta một hiểu biết sâu sắc về một thời đại
đặt ra nhiều câu hỏi và những câu trả lời đã dần trở thành hiện thực. Với ý nghĩa rằng
mỗi cuốn sách không chỉ nói về quá khứ mà còn nói với tƣơng lai, “Les jungles Moi -
Rừng ngƣời Thƣợng” thực sự là một công trình ghi dấu cho núi rừng, con ngƣời và nền
văn minh vùng Trƣờng Sơn Tây Nguyên. Năm 2008, công trình này đƣợc Viện Viễn
Đông Bác Cổ, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và NXB Tri Thức công bố bản dịch ra
tiếng Việt của Lƣu Đình Tuấn với tựa đề Rừng ngƣời Thƣợng - vùng rừng núi cao
nguyên miền Trung Việt Nam [65].
Trong những ngƣời thuộc thế hệ nghiên cứu sau chiến tranh thế giới thứ hai phải kể đến
Jacques Dournes mà Dam Bo chính là bút danh của ông, một trong những nhà Tây Nguyên
học say mê nhất và nổi tiếng nhất. Ông sống ở Tây Nguyên gần suốt ba mƣơi năm, am hiểu sâu
sắc hàng chục dân tộc thiểu số ở đây, nói thành thạo ngôn ngữ của họ, và đã viết hàng chục
công trình có thể coi thuộc số những công trình nghiên cứu cơ bản nhất về Tây Nguyên cho
đến ngày nay. Trong số đó có những công trình đƣợc coi gần nhƣ là “kinh điển” trong khoa
nghiên cứu về Tây Nguyên, nhƣ các cuốn Pơ tao, một lý thuyết về quyền lực ở ngƣời Giarai
Đông Dƣơng [27], Rừng, Đàn bà, Điên loạn - hành trình qua miền mơ tƣởng Giarai (1950)
[25], Miền đất huyền ảo – các dân tộc miền núi Nam Đông Dƣơng (1950) [26]...
Tác phẩm của Dam Bo không chỉ cung cấp những tƣ liệu quý giá mà hơn thế rất
nhiều, một số vấn đề cơ bản tác giả đặt ra về sự phát triển của xã hội và về số phận con
ngƣời ở đây vẫn còn nóng hổi tính cập nhật. Về một phƣơng diện nào đó, công trình
nghiên cứu công phu và đầy nhiệt tâm này đã vƣợt qua đƣợc sự thử thách của thời gian,
và không hề lạc hậu. Chẳng hạn nhƣ công trình Miền đất huyền ảo, ông đã phản ánh
cuộc sống hiện thực lẫn huyền thoại hoang dã của những ngƣời miền núi, trong đó có
ngƣời Ba Na, bằng một quan niệm mang tính vũ trụ quan đầy siêu hình. Miền đất huyền
ảo tái hiện diện mạo của ngƣời Tây Nguyên với những nét phác về “Ngƣời Xơ đăng ra
13
trận”, “Đời sống của ngƣời Ba Na”; “Kết ƣớc liên minh của ngƣời Rơ ngao”; “Ngƣời
Stiêng đi săn”… đầy tính khoa học và bay bổng văn chƣơng của ông.
Đặc biệt về vấn đề tôn giáo, tín ngƣỡng, Jacques Dournes có một cái nhìn bao
dung đối với tín ngƣỡng của những ngƣời mà ngƣời Kitô giáo cho là “ngoại đạo” (les
paiens). Một câu nói của ông đối với cƣ dân Tây Nguyên “Chúa yêu những ngƣời ngoại
đạo” (Dieu aime les paiens), sau này trở thành nhan đề của một cuốn sách ông viết về
thần học và dân tộc học.
Đến những năm 40, 50 của thế kỷ XX, tín ngƣỡng của ngƣời Tây Nguyên nói
chung và ngƣời Ba Na nói riêng đƣợc các học giả Pháp chú tâm nghiên cứu sâu hơn, nhất
là Paul Guilleminet với nhiều công trình có giá trị. P. Guilleminet đã viết bài đầu tiên về
ngƣời Ba Na năm 1938, sau cuốn Mọi Kontum của hai tác giả ngƣời Việt Nguyễn Kinh
Chi, Nguyễn Đổng Chi một năm. Năm 1942, ông cho ra đời cuốn sách: Nghiên cứu về
những tín ngƣỡng của các bộ lạc vùng cao An nam, ngƣời Bâhnar Kon Tum và những
ngƣời láng giềng của họ, những thuật bí. Đến năm 1948, công trình: Bộ lạc Bâhnar ở
Kon Tum (Le tribu Bahnar du Kontum) [46] đƣợc công bố và có thể xem đây nhƣ công
trình đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu tộc ngƣời, có một giá trị khoa học nhất định khi tìm
hiểu tất cả những vấn đề về văn hoá, kinh tế, xã hội của tộc ngƣời Ba Na trong đó có đề
cập đến nội dung quan trọng là tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na, những quan niệm về thần
linh, linh hồn, những kiêng kị, điềm báo, giấc mơ, sự phân tầng thế giới... Năm 1952, công
trình Tập quán của bộ tộc Bahnar, Sedang và Djara của tỉnh Kontum đƣợc áp dụng tại
tòa án của tỉnh từ năm 1908 đến năm 1939 (Coutumier de la tribu bahnar, de Sedang et
des Djarai de la province de Kontum selon la coutume appliquée dans les tribunaux de
cette province de 1908 à 1939) [47] đƣợc công bố. Cùng với đó là hàng loạt các công
trình: “Ghi chép về tục thờ cúng chó và các súc vật trong xã hội ngƣời Mọi Kon Tum”,
“Lễ tế trâu của ngƣời Bahnar tỉnh Kon Tum”, “ Hiện tƣợng bán ra trong xã hội ngƣời
Bahnar”, “Nghề săn bắn của ngƣời Bahnar”, “Cái chết và sự chôn cất trong xã hội ngƣời
Bahnar”...
Tiếp đến, Sion John viết công trình “Ngƣời Bahnar Jolong của tỉnh Kon Tum”
(Les Bahnars Jolongs de la province de Kontum) [57], in tại Sài Gòn vào năm 1949.
Mỗi công trình có những chính kiến khác nhau, và chủ yếu còn dừng lại ở việc
mô tả dân tộc học nhƣng có thể thấy các học giả Pháp đã để lại cho chúng ta nhiều tƣ
14
liệu quí giá; hơn nữa nhiều vấn đề về tín ngƣỡng và sự phát triển xã hội và con ngƣời
nơi đây có thể nói vẫn còn nóng hổi tính tƣ liệu, tính cập nhật trong mỗi công trình.
Mặc dù mới chỉ là những nghiên cứu đầu tiên, nhƣng các công trình của các tác
giả ngƣời Pháp có giá trị về mảng văn hóa phi vật thể, trong đó có tôn giáo, tín ngƣỡng,
phong tục tập quán của cộng đồng ngƣời Ba Na nói riêng, các dân tộc khác trên vùng
Tây Nguyên nói chung. Những công trình nghiên cứu này đa phần đƣợc nghiên cứu theo
phƣơng pháp dân tộc chí, là những tƣ liệu quý giá trong việc nghiên cứu so sánh phong
tục tập quán, tôn giáo, tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na với các tộc ngƣời khác ở mảnh đất
cao nguyên này từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Về những hạn chế của các công trình do các tác giả phƣơng Tây nghiên cứu về
phong tục tập quán, tín ngƣỡng Ba Na chúng tôi đồng ý với Vƣơng Hoàng Trù rằng:
“Các tác giả nƣớc ngoài và chủ yếu là các học giả phƣơng Tây, khi nghiên cứu về các
tộc ngƣời ở phƣơng Đông thì dƣới con mắt của họ đây là những cƣ dân còn lạc hậu cần
đƣợc khai hóa” [88, tr. 18]. Nguyên nhân của những hạn chế đó chủ yếu là do quan niệm
coi phƣơng Tây là trung tâm, coi văn hóa các nƣớc thuộc địa là thấp kém, chƣa văn
minh, cần khai hóa. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc một số nhà nghiên cứu
coi những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngƣỡng của các dân tộc ở Tây Nguyên,
trong đó có ngƣời Ba Na là “mê tín dị đoan”, là “rất khó hiểu”. Không thể không nói tới
mục đích chính trị của một số công trình do các học giả Pháp viết về Tây Nguyên.
Truyền giáo, nghiên cứu phong tục tập quán để tìm ra phƣơng cách bình định và cai trị
phù hợp, sau đó là quân sự và bình định của quân đội vốn là lộ trình quen thuộc với các
nƣớc chậm phát triển trong thế kỷ XIX.
Bên cạnh các công trình của các học giả ngƣời Pháp còn có một số công trình
nghiên cứu về Tây Nguyên của các học giả Mỹ. Những tác giả ngƣời Mỹ bắt đầu quan
tâm đến các dân tộc ở vùng Trƣờng Sơn- Tây Nguyên từ cuối thập niên 1950.
Gerald. C. Hickey đến Tây Nguyên lần đầu tiên vào năm 1956. G.C. Hickey và
những nhà nghiên cứu làm việc cho Viện Ngôn ngữ học Mùa hè (Summer Institute of
Linguistics) là những học giả ngƣời Mỹ có nhiều công trình nghiên cứu nhất về dân tộc
vùng Trƣờng Sơn- Tây Nguyên, trong đó có ngƣời Ba Na. Năm 1964 công trình The
major ethnic groups of the south vietnamese highland (Các nhóm thiểu số ở Nam Việt
Nam) [44] của G. C. Hickey đƣợc công bố gồm hai phần. Phần một: “Nền tảng chung của
15
đồng bào vùng cao và mô hình của cuộc sống của họ” với “Nguồn gốc và đặc điểm của
văn hóa”, “Hoạt động kinh tế”, “Tổ chức chính trị - xã hội”, “Tôn giáo”, “Sự giao tiếp với
bên ngoài”. Phần hai: “Lịch sử vùng đất và những tính năng đặc trƣng của các nhóm tộc
ngƣời chính” với “Những phác thảo ngắn gọn về lịch sử”, “Những liên minh” và sáu
nhóm chính mà công trình đề cập gồm: Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Mnông, Stiêng, Xê Đăng.
Trong nghiên cứu về tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na, công trình có đề cập đến những kiêng
kị của ngƣời Ba Na trong cuộc sống, quan niệm của họ về linh hồn, về thế giới thần linh
và siêu nhiên, về vai trò của các thầy cúng…
Năm 1966, công trình Các nhóm thiểu số ở Việt Nam Cộng hòa (Minority groups
in the Republic of Vietnam) [71] của Joann L. Schrock và các tác giả khác, do Bộ Quốc
phòng Hoa Kỳ xuất bản dày trên 1.000 trang là một tập nghiên cứu tổng hợp
Ethnographic Study Serries về các tộc ngƣời ở Tây Nguyên mà tƣ liệu dựa trên những
công trình của các học giả ngƣời Pháp. Công trình gồm 2 phần. Phần 1 tìm hiểu về “Các
bộ tộc” gồm 18 dân tộc: Ba Na, Bru, Cua, Halang, Mạ, Hre, Koho, Katu, Jarai, Ê đê,
Hroi, Jeh, Mnong, Mƣờng, Raglai, Rơ ngao, Sê đăng, Stieng. Phần 2 tập trung nghiên
cứu “Các nhóm thiểu số khác” với các nhóm Bình Xuyên, Cao Đài, Chăm, Hoa, Hòa
Hảo, Khmer, Ấn Độ và Pakistan. Công trình đã có cách lí giải khá tổng quát về văn hóa
của ngƣời Ba Na trên các bình diện nhƣ: lịch sử hình thành tộc ngƣời, cách thức định cƣ,
đặc điểm hình thể, cách thức chăm sóc sức khỏe, tổ chức xã hội, phong tục tập quán, tôn
giáo và tín ngƣỡng....
Qua tiếp cận những nguồn tƣ liệu này, chúng tôi nhận thấy rằng nhìn chung các
nghiên cứu của các tác giả ngƣời Mĩ kế thừa khá nhiều từ các học giả Pháp, và cho đến
nay những tài liệu này vẫn có giá trị tham khảo nhất định, nhất là những tƣ liệu về bản đồ
để các nhà nghiên cứu sau này có cơ sở đối chiếu.
1.1.1.2. Các nghiên cứu của tác giả Việt Nam
Những bài viết, những công trình nghiên cứu đầu tiên có liên quan đến đề tài này
là những dòng biên niên sử của các triều đại phong kiến Việt Nam và ghi chép của các
quan lại phong kiến Việt Nam trong các sách sử biên niên từ thế kỷ XVI – XVIII. Dƣới
thời nhà Nguyễn, do yêu cầu thiết lập quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa triều đình với cao
nguyên phía Tây mà thông tin về vùng đất Gia Lai, trong đó có thông tin về tín ngƣỡng
cổ truyền đƣợc các nhà viết sử đặc biệt quan tâm và ghi chép ngày càng chi tiết trong