Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tiểu thuyết sông của nguyễn ngọc tư từ nhãn quan văn hóa
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ CẨM
TIỂU THUYẾT SÔNG CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
TỪ NHÃN QUAN VĂN HÓA
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 82 20121
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
Đà Nẵng - Năm 2019
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI BÍCH HẠNH
Phản biện 1: TS. Nguyễn Thanh Trường
Phản biện 2: TS. Hà Ngọc Hòa
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ Văn học Việt Nam họp tại Đại học Sư
phạm vào ngày 06 tháng 01 năm 2019.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học, nghệ thuật cùng với tôn giáo, triết học, phong tục… là
những bộ phận hợp thành cấu trúc văn hóa. Nếu văn hóa là toàn bộ các
giá trị vật chất và tinh thần thể hiện cách nhìn nhận, cách sắp xếp hệ
thống các giá trị thì văn học lại là hoạt động lưu giữ toàn bộ những giá
trị ấy một cách sinh động và đặc sắc nhất. Như vậy giữa văn hóa và văn
học có mối quan hệ rất sâu sắc. Văn hóa không chỉ đơn thuần là những
biểu hiện trên bề mặt mà có tác động mạnh mẽ đến cả chiều sâu đối với
văn học, nhất là trong tâm thức của nhà văn. Thực tế đã chứng minh tác
phẩm văn học Việt Nam từ văn học dân gian đến văn học viết đã lưu giữ
văn hóa Việt Nam một cách thấm thía và sâu sắc. Để tìm hiểu lịch sử
văn hóa một dân tộc thì việc khảo sát những tác phẩm văn chương là
điều cần làm, nên làm, và đáng làm nhất trong các thao tác thực hiện của
các nhà nghiên cứu. Bởi tác phẩm văn chương không chỉ đơn thuần là
tiếng nói chủ quan của cá nhân tác giả mà còn chứa đựng chiều sâu văn
hóa dân tộc, chiều sâu nhân học văn hóa.
Là một nhà văn trẻ, Nguyễn Ngọc Tư đã gây nên một tiếng
vang trong văn chương từ những năm đầu thế kỉ XXI bởi các truyện
ngắn, tản văn, tạp bút mang hơi thở của văn hóa Nam Bộ. Để giữa cái
xôn xao của thị thành tấp nập, giữa cái đa dạng nhiều chiều trong xu
hướng tiếp nhận văn chương đương thời, tác giả đã thổi một luồng
gió phương Nam vào văn học bằng chất giọng đặc trưng của miền
Tây sông nước, để độc giả giật mình thảng thốt: trong cơn dư chấn
của nền văn hóa truyền thống bị lung lay đảo lộn, Nguyễn Ngọc Tư
đã vực dậy văn hóa bằng cách nào.
2
Sông là tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư. Một cuốn
tiểu thuyết được thai nghén qua lớp trầm tích của rất nhiều tản văn,
truyện ngắn. Lớp trầm tích phủ màu sắc văn hóa phương Nam nói
riêng, văn hóa Việt Nam nói chung qua cái nhìn đa chiều, sâu sắc,
nhạy cảm của một phụ nữ đủ chín muồi với trải nghiệm đa đoan đời
thực. Nhà văn thổi vào Sông linh hồn văn hóa Việt, linh hồn cội
nguồn Việt của những con người trẻ tuổi sống ở thời đại mới với bao
trải nghiệm trái ngang của cuộc đời. Từ đó, đi xuyên qua Sông, người
đọc sẽ quan sát văn hóa dân tộc Việt một cách khách quan và khoa học
nhưng không kém phần đa dạng và thấm thía. Hiểu mình, hiểu người,
thấy sự vận động, đổi thay từng ngày từng giờ trên trang đời sống xã hội
hiện đại của người Việt: người ta còn lưu giữ gì? Người ta quên mất gì?
Người ta nuối tiếc gì? Người ta mong gì? Người ta khao khát những gì?
Vì những lẽ trên mà trong luận văn này, chúng tôi chọn đề tài
“Tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư từ nhãn quan văn hóa” với
mong muốn tiếp cận tác phẩm ở một phương diện của cái đẹp truyền
thống và cả sự đối thoại giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện
đại trong tiểu thuyết này, từ đó có thể góp phần khám phá tác phẩm
một cách sâu sắc và toàn diện.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Tư được xem là “một hiện tượng đặc biệt
trong làng văn học nước nhà” bởi sự xuất hiện đột ngột của chị và
hơi thở văn chương chị thổi vào các tác phẩm của mình. Bắt đầu
bằng các tản văn, tạp bút rồi đến truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư đã có
“sự bức phá” khi cho ra đời tiểu thuyết Sông.
Ngay từ lời giới thiệu, Nhà xuất bản Trẻ đã gây ấn tượng
mạnh mẽ cho người đọc: Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo. Đó cũng là
3
lí do để tiểu thuyết Sông khơi nguồn cho các nhà nghiên cứu phê
bình, các nhà báo, các bạn đọc trẻ tuổi..
Nghiên cứu về sáng tác Nguyễn Ngọc Tư ở góc nhìn văn
hóa, Trần Hữu Dũng có bài viết: Nguyễn Ngọc Tư - đặc sản miền
Nam nhấn mạnh phong cách riêng của nhà văn trẻ từ vùng sông nước
Cà Mau. Hay trong lời tựa tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt,
Nguyễn Quang Sáng đã từng nhận xét về giọng điệu của Nguyễn
Ngọc Tư, “giọng văn mộc mạc bình dị, với ngôn ngữ đời thường”.
Chu Lai cũng khẳng định rằng: Nguyễn Ngọc Tư là cây bút tiêu biểu
của miền Tây Nam Bộ, một tài năng hiếm có của văn học Việt Nam
hiện nay. Huỳnh Công Tín cũng gọi Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn
Nam Bộ và nhận xét: “Nhân vật trong tác phẩm của chị là những con
người Nam Bộ…chân chất kiểu Nam Bộ…Vùng đất và con người
trong sáng tác của chị được dựng lại bằng chính chất liệu của nó là
ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ”. Nguyễn Trọng Bình là
người nghiên cứu khá nhiều về Nguyễn Ngọc Tư, với Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư dưới góc nhìn văn hóa, Nguyễn Trọng Bình đã đi
vào tìm hiểu vốn văn hóa trong các truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, đó
là văn hóa làng quê Nam Bộ thấm đẫm trong hầu hết các truyện ngắn,
từ đó ông khẳng định ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa bắt nguồn
từ niềm tự hào của nhà văn về những phẩm chất và giá trị văn
hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Như vậy, ở góc nhìn văn hóa,
đã có không ít cái bài viết, các nhà nghiên cứu ít nhiều đi sâu khai
phá những vẻ đẹp ẩn tàng trong các sáng tác của chị.
Bởi sức nóng của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư mà ngay từ khi
mới ra đời, tiểu thuyết Sông đã có sức hấp dẫn đặc biệt với các nhà
nghiên cứu, các cây bút phê bình và bạn đọc. Trần Hữu Dũng trong
Nguyễn Ngọc Tư và Sông đã khai thác Sông ở yếu tố địa danh. Với
4
phê bình về Sông: Sông - NNT, từa tựa sự thật - tác giả Nhị Linh đã
nhìn thấy một thế giới trong Sông, đó là thế giới chênh vênh giữa hai
bờ hư - thực, đồng thời tác giả bài viết cũng đề cập đến yếu tố văn
hóa qua lời bàn: “Không khí đặc trưng của miền Tây vẫn tiếp tục rõ
nét trong Sông”. Mai Anh Tuấn trong Tiểu thuyết Sông - Khảo sát về
sự biến mất cho rằng Sông là sự hợp thức giữa tiểu thuyết và lối viết
du khảo. Tác giả Tiểu Quyên lại cho rằng“Tiểu thuyết Sông được
đánh giá là độc đáo, đầy tính thời sự mà cũng giàu chất thơ. Nhà phê
bình Phạm Xuân Nguyên, một trong số ít người tiếp cận bản thảo
Sông sớm nhất, trong một vài cuộc nói chuyện cũng từng có nhận xét
rằng: Trong tiểu thuyết Sông, vẫn là không gian sông nước quen
thuộc.
Sức hấp dẫn của Sông còn được khảo sát ở hàng loạt các bài
báo. Tác giả Kim Dung Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đưa “đồng tính”
vào tiểu thuyết đầu tay. Cao Việt Dũng trong bài viết Nguyễn Ngọc
Tư và những cuộc bỏ đi cho rằng “Sông là rất nhiều câu chuyện nhỏ
ghép thành, nhưng nó chỉ xoáy sâu vào một điều: sự bỏ đi”. Cũng
viết về Sông, tác giả Phương Thúy lại nhìn nhận ở phương diện thể
loại. Như vậy, dường như tất cả các bài báo giới thiệu về tiểu thuyết
hay các bài phê bình đều hướng đến sự thay đổi về thể loại sáng tác
của Nguyễn Ngọc Tư, từ đó nhìn nhận cách chuyển mình trong lối
viết của chị. Chỉ có nhà văn Mai Anh Tuấn đã dừng lại về yếu tố văn
hóa trong tiểu thuyết này ở góc nhìn bao quát nhưng còn khá chung
chung, chưa đi vào cụ thể.
Dựa trên tất cả những nguồn tư liệu mà chúng tôi khảo sát
được dễ nhận ra một điều rằng Sông đã được khám phá ở khá nhiều
phương diện, nhưng ở góc nhìn văn hóa, chưa thật sự có công trình
nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu. Trên tinh thần kế thừa và tiếp thu
những thành tựu mà các nhà nghiên cứu, các tác giả đã khảo cứu
5
được, trong luận văn này, chúng tôi mong muốn tiếp tục khảo sát
“Tiểu thuyết Sông dưới góc nhìn văn hóa” để từ đó, góp thêm cái
nhìn về tác phẩm ở một khía cạnh gần gũi nhưng lại sâu sắc và ý
nghĩa.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tiểu thuyết Sông - Nguyễn Ngọc Tư
(Nhà xuất bản Trẻ, 2017).
- Phạm vi nghiên cứu: nhãn quan văn hóa trong tiểu thuyết
Sông của Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ các phương diện tâm thức văn hóa.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp loại hình.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành.
5. Đóng góp của đề tài
Với đề tài “Tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư từ nhãn
quan văn hóa” chúng tôi chỉ mong muốn góp thêm một cái nhìn về
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư nói chung, tiểu thuyết Sông nói riêng ở
một phương diện gần gũi và mang tính tâm linh của người Việt. Mặc
khác, cũng mong muốn khám phá tác phẩm của chị ở phần nhân bản
của con người trong xã hội hôm nay - con người trong dòng chảy của
văn hóa.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư trong dòng chảy văn
xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Chương 2. Sông của Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ tâm thức văn hóa
6
Chương 3. Phương thức biểu hiện tâm thức văn hóa trong
Sông của Nguyễn Ngọc Tư
CHƢƠNG 1
VĂN XUÔI NGUYỄN NGỌC TƢ TRONG DÒNG CHẢY
VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI
1.1. Văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XXI - những xu hƣớng “lạ hóa”
1.1.1. Đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người
Macxim Gorki từng cho rằng “Văn học là nhân học”. Quan
niệm này đã đã khẳng định con người là đối tượng chủ yếu và là đối
tượng trung tâm mà văn học phản ánh. Thế kỉ XX trở về trước, ta thấy
bóng dáng con người vũ trụ, con người đạo đức, con người đấng bậc và
con người có ý thức cá nhân. Tuy vậy, con người cá nhân trong văn học
Trung đại gắn với tự nhiên, với các chuẩn mực đạo đức.
Văn học Việt Nam từ sau thế kỉ XX là tiếng nói của cái tôi cá
nhân dám bày tỏ mọi nỗi đau khổ của con người. Sau Cách Mạng
tháng Tám, quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người có bước
chuyển mình: con người anh hùng, con người sử thi, con người của
vận mệnh dân tộc. Công cuộc cách mạng hoàn tất cũng là lúc văn học
bung vỡ tiếng nói của cái tôi cá nhân đích thực. Vì thế, quan niệm
nghệ thuật về con người đã có sự chuyển biến.
1.1.2. Cách tân trong kĩ thuật viết
Từ thế kỉ XX tiểu thuyết không chỉ đổi mới về nội dung mà
còn thay đổi về hình thức thể hiện. Nhìn từ phương diện nghệ thuật
có thể thấy hai xu hướng chính: làm mới tiểu thuyết trên nền truyền
thống và hướng cách tân theo tinh thần hiện đại.
Ỏ xu hướng thứ nhất, các tác giả chủ yếu vẫn bám sát khung
thể loại truyền thống nhưng đã có thêm gia tăng, sự thay đổi điểm
7
nhìn trần thuật, sử dụng yếu tố huyền ảo, yếu tố trào lộng… Thứ hai
là xu hướng cách tân theo tinh thần hiện đại. Vậy sự đổi mới về kĩ
thuật viết được thể hiện ở những phương diện nào?
Thứ nhất, sự thu hẹp về quy mô tác phẩm là đặc điểm dễ
nhận ra đầu tiên về mặt hình thức.
Thứ hai, là sự dung hợp các thể loại trong một tiểu thuyết.
Thứ ba, sự đổi mới trong kĩ thuật viết còn được thể hiện
ở hiện tượng “ngoại đề hóa” hay hiện tượng “phi tâm hóa” truyện kể
và sử dụng đậm đặc lối tự sự phân mảnh.
Thứ tư, một thủ pháp “lạ hóa” trong kĩ thuật viết của các nhà
văn thế kỉ XXI chính là lối cắt dán phân mảnh.
Như vậy việc đổi mới kĩ thuật viết, văn chương Việt Nam thế
kỉ XXI mang dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại, biểu hiện ở “chủ
trương phi tâm hóa, chấp nhận sự kết hợp lỏng lẻo giữa các thành tố
trong tác phẩm như những thủ pháp nghệ thuật quan trọng”.
1.2. Nguyễn Ngọc Tƣ và hành trình sáng tạo văn xuôi
1.2.1. Nguyễn Ngọc Tư - nhà văn của thời đại mới
Trong xôn xao của cánh đồng văn chương Việt Nam đầu thế
kỉ XXI, sự xuất hiện của Nguyễn Ngọc Tư như một “cơn gió lạ” tạo
nên một “dư vị” mới. Những tản văn đầu tiên đến với bạn đọc rồi
những truyện ngắn lần lượt xuất hiện bằng giọng điệu mộc mạc, đậm
màu sắc Nam Bộ. Lần đầu tiên, một vùng văn hóa miền Nam với
giọng điệu rất riêng đã bước ra khỏi phạm vi nhỏ hẹp vùng miền,
bước vào một vùng văn hóa rộng lớn hơn.
Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư viết những điều quen thuộc
hằng ngày đi vào tâm thức của chị. Không dừng lại ở đó, Nguyễn
Ngọc Tư chạm đến những vấn đề xã hội gay gắt, chị đã viết những
truyện phản ánh sinh động hiện thực đến kiểu truyện tư tưởng. Nói
8
một cách khác, Nguyễn Ngọc Tư đang đi về phía nghệ thuật hiện đại.
Nguyễn Ngọc Tư đã viết được những truyện hư cấu, những truyện tư
tưởng, đặt trong những kiểu cấu trúc tác phẩm khác nhau.
Chính vì những lẽ trên, Nguyễn Ngọc Tư từ một nhà văn của
vùng đất mũi xa xôi đã từng bước đi vào hành trình của một nhà văn
thời đại mới. Không bằng lòng với những điều mình có chị đã đóng
góp cho văn chương hiện đại Việt Nam bằng những thành tựu nghệ
thuật đặc sắc, bằng sự tĩnh lặng vốn có của mình.
1.2.2. Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư – “dòng riêng giữa nguồn
chung”
Thế kỉ XXI, người ta bắt gặp tràn lan những tác phẩm văn
chương đẫm mùi tính dục, nó như một “mode” thời thượng. Nguyễn
Ngọc Tư không sử dụng yếu tố ấy như một công cụ câu khách. Chị
đã viết về sex, về khát vọng sex nhưng thấm thía ý nghĩa nhân bản.
Nhưng điều níu giữ Nguyễn Ngọc Tư để chị luôn là một cây bút tinh
tế, bản lĩnh, có chiều sâu là bởi tâm hồn chị được hun đúc bởi một
chiều sâu văn hóa.
Thế kỉ XXI, người ta cũng bắt gặp các tác phẩm văn xuôi với
việc sử dụng ngôn ngữ khá độc đáo, đa dạng và đa thanh phức điệu.
Trong dòng chảy ấy, Nguyễn Ngọc Tư cũng âm thầm khi sử dụng thứ
ngôn ngữ rất riêng để chạm khắc tiếng nói vùng miền vào lịch sử văn
học. Đó không chỉ là việc vận dụng thứ ngôn ngữ khẩu ngữ Nam Bộ
mà chị còn vận dụng thứ ngôn ngữ đã được trau dồi qua thời gian,
được chắt lọc qua tư duy nhận thức của con người. Đó là ngôn ngữ
biến tấu từ ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ tính dục. Bên cạnh
ngôn ngữ, nhà văn luôn làm nên nét dấu ấn cho riêng mình ở những
trang viết qua giọng điệu. Cũng vẫn là những giọng điệu triết lí, hoài
niệm, hay chất giọng điềm nhiên trước thực tại xã hội. Nhưng ở chị,
9
là một sắc giọng không thể nào trộn lẫn. Giọng điệu Nam Bộ phả ra
trong từng hơi thở của nhân vật, là kiểu cốt cách khí khái của người
niềm Nam, là cái thâm trầm của người đàn bà miền Nam trải qua
nhiều oan trái cuộc đời. Đó còn là cách nhà văn đặt các biểu tượng
nghệ thuật ở những nơi đắt địa nhằm mở ra nhiều trường liên tưởng,
chồng xếp nhiều tầng ý nghĩa cho tác phẩm của mình. Tất cả các biểu
tượng nghệ thuật ấy đều bước ra từ cội nguồn văn hóa Nam Bộ với
chiều dài lịch sử trong quá trình thích ứng và giữ gìn truyền thống.
Tóm lại, Nguyễn Ngọc Tư là một nghệ sĩ có chân tài trong
nền văn chương hiện đại Việt Nam. Tác phẩm của nhà văn mang tính
hiện thực sâu sắc vì đã phản ánh được chân dung đích thực với tâm
tư, nguyện vọng và tình cảm của lớp người lao động nghèo khó ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Bằng một phong cách nghệ thuật tiêu
biểu cho lối viết chơn chất mà cô đọng của những người cầm bút ở
phương Nam chị đã luôn biết cách chảy trôi theo dòng, nhưng luôn
biết mình không hòa lẫn vào dòng chảy ấy, để khẳng định mình.
10
CHƢƠNG 2
SÔNG CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ NHÌN TỪ
TÂM THỨC VĂN HÓA
2.1. Mạch nguồn văn hóa Việt - cốt lõi văn hóa truyền thống
2.1.1. Không gian văn hóa đậm chất Nam Bộ
Là vùng đất với điều kiện tự nhiên sông nước, cuộc sống của
người dân Nam Bộ gắn bó mật thiết với thuyền, ghe… Nó không chỉ
là phương tiện thiết yếu để di chuyển mà nó là vật thiết thân của họ,
là chứng nhân cho toàn bộ cuộc đời của họ.
Nam Bộ là vùng rộng lớn sông, hồ, ao… cùng với sự trù phú
của nguồn thực phẩm sông nước dồi dào. Trong Sông, Nguyễn Ngọc
Tư đã hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp của văn hóa ẩm thực vùng sông
nước miền Nam dân dã qua một món quen thuộc trong mâm cơm của
người dân quê nghèo khó, lam lũ.
Một yếu tố nữa trong Sông để thấy bóng dáng của văn hóa
sông nước là cuộc sống sinh hoạt của con người luôn gắn với dòng
sông. Đó là cuộc đời trong những chuyến đi của mẹ chồng nàng dâu
bán vải, là cuộc đời đi dọc con sông của người đàn ông làm nghề
chèo đò chở hàng.…
Không gian văn hóa được xác lập không chỉ bởi những yêu
tố vật chất mà chiều sâu của nó còn là sự đan dệt của các yếu tố tinh
thần. Đó các tín ngưỡng tôn giáo. Nhà văn đã lột tả đời sống tâm linh
của người Việt qua các lễ hội truyền thống. Nó độc đáo bởi chị đã có
cái nhìn “giải thiêng” những lễ hội và phong tục. Chính cái nhìn “giải
thiêng” ấy phần nào mang màu sắc của những ám ảnh bi kịch, những
bất an và những hồi kết không trọn vẹn. Nguyễn Ngọc Tư không
xuôi chiều với cái nhìn của những phong tục tập quán tín ngưỡng
11
truyền thống. Đấy là cách chị để cho nhân vật thể hiện một nhân sinh
quan mới, bày tỏ sự hồ nghi về xã hội thực tại.
Không gian văn hóa trong Sông còn được tạo nên bởi những
câu chuyện về các làng nghề truyền thống. Trong Sông, Nguyễn
Ngọc Tư đã phục dựng lại làng nghề đẽo gỗ bằng tay. Tác giả không
chỉ đơn thuần phục dựng, tự hào, hay nuối tiếc về một làng nghề
truyền thống đang bước vào ngõ tối mà là câu chuyện ông tổ của
nghề. Do đó, sức ám ảnh của Sông chính là những câu chuyện mà
nhà văn đan cài trong các tín ngưỡng phong tục đó để gởi đến một
quan niệm nhân sinh.
Trong Sông còn tái hiện một lẽ hội truyền thống. Đó là chợ
tình: chợ Thương. Nguyễn Ngọc Tư muốn phản ánh một thực tại của
hôm nay hay muốn gởi những tiếng nói khát khao được sống với tình
yêu, được sống là chính mình trong một xã hội dù phát triển nhưng
còn đầy rẫy định kiến.
Sông - cũng như những truyện ngắn hay tản văn của Nguyễn
Ngọc Tư, ngay từ đầu đã thấy bóng dáng của một không gian văn hóa
đậm chất Nam Bộ. Tuy vậy Nguyễn Ngọc Tư không phải là người
sao chép lại văn hóa vào trong tác phẩm của mình mà chị phóng
chiếu nó trong cái nhìn vừa tự hào vừa đối thoại.
2.1.2. Văn hóa ứng xử và căn tính của con người Nam Bộ
Với những điều kiện tự nhiên được ưu ái, con người Nam Bộ
trong quá trình định hình và phát triển vùng đất này đã thể hiện cách
ứng xử một cách hài hòa với thiên nhiên và con người, từ đó bật lên
căn tính của người Nam Bộ.
Trong Sông ta thấy bóng dáng con người mang tính cách đặc
trưng của người miền Nam. Đó là đạo lý, tình nghĩa - đặc trưng
12
trong ứng xử của con người Nam Bộ. Đó là câu chuyện của mẹ
chồng nàng dâu tên Bế, của Ân, của chị San…
Người miền Nam vốn được biết đến là những con người với
tính cách ngay thẳng, bộc trực. Điều ấy thể hiện ở cách mà họ đã đối
đãi với nhau một cách rất trượng nghĩa, cư xử một cách phóng
khoáng và hào hiệp. Họ sẵn sàng cho người khác tá túc nhà mình khi
người khác sa cơ; là sự nóng giận của Xu khi chứng kiến người đàn
bà đánh vợ; là cách mà Ân và Tú đã tìm mọi cách bảo vệ cô gái có
tên Bí Đỏ… Họ ngời lên vẻ đẹp của người Nam Bộ. Những con
người ân nghĩa, thủy chung, mộc mạc, hồn hậu và rất chân thành.
2.2. “Dòng chảy văn hóa” Việt qua sự biến động của thời đại
2.2.1. Quan niệm định kiến của con người về giới
Khi Nguyễn Ngọc Tư công bố tiểu thuyết đầu tay Sông
người đọc ngỡ ngàng vì hành trình con người tìm kiếm chính mình.
Họ không dám sống cuộc sống của mình, không dám thể hiện mình.
Là Ân, âm thầm sống cuộc sống của một người ở thế giới thứ ba
trong sự dằn vặt, cô độc.
Trong Sông người đọc còn thấy những Bối, Xu… Những
chàng trai có vẻ ngoài mạnh mẽ lại mang thiên tính nữ. Họ khao khát
được bỏ lớp mặt nạ, để sống với chính mình, là chính mình.
Sông của Nguyễn Ngọc Tư đã lên tiếng nói bênh vực cho
những người đồng tính, họ xứng đáng được hưởng cuộc sống bình
thường như bao nhiêu người khác.
Trong Sông Nguyễn Ngọc Tư đã tiến hành một cuộc khám
phá đậm chất nhân văn của văn nghệ thời đại khi tiếp cận một phần
không nhỏ nhân loại, một diện mạo nhân bản của tâm hồn người. Có
thể nói, đề tài đồng tính đích thực là cuộc cách mạng nhân văn tiến
13
bộ sau cuộc cách mạng nữ quyền, góp phần giải phóng cá tính và
khẳng định những giá trị đậm chất nhân bản.
2.2.2. Con người với khát vọng tìm về bản thể uyên nguyên
Tinh thần hiện sinh trong văn học cơ bản là sự kiếm tìm bản
thể. Với nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, sống là hành vi lựa chọn và
dấn thân. Bằng cách ngược dòng sông Di nhà văn đã để những Ân,
Xu, Ánh tạo lập “vóc dáng” mình. Mà triết học hiện sinh gọi bằng cái
tên là khẳng định “nhân vị”. Hành trình của Bối, của Ân, của Tú đã
khẳng định khát vọng tìm kiếm bản thể uyên nguyên con người.
Nguyễn Ngọc Tư đã chứng thực cho dòng chảy văn hóa Việt qua sự
tác động của thời đại bằng hành trình của các nhân vật, từ đó khẳng
định, ngợi ca những khát vọng rất người. Để thấy ở mảng này,
Nguyễn Ngọc đã chạm đến giá trị nhân bản.
2.2.3. Đối thoại với quan niệm truyền thống về cái chết
Sông của Nguyễn Ngọc Tư dày đặc những cái chết. Đó là cái
chết không dự báo. Con người thờ ơ trước sự biến mất vĩnh viễn của
người khác. Phải chăng, đời sống của xã hội thực tại đã khiến con người
thờ ơ vô cảm trước cái chết của người khác?
Trong Sông, Nguyễn Ngọc Tư không dễ dầu lãng quên cách
con người hành xử trước sự ra đi của người khác. Đó là sự thương
xót. Vậy nên, tha thứ mọi tội lỗi cho người đã chết, quên đi mọi tội
lỗi của người đã chết cũng là cách người Việt bày tỏ tấm lòng của
mình với họ.
Với người Việt cái chết rất linh thiêng. Vì vậy, nó gắn với
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đó là sự nối kết tình thân trong một giai
đoạn mà mọi giá trị đạo đức, mọi mối quan hệ đang lỏng lẻo đến rạn
vỡ. Thậm chí việc để tang, việc thờ cúng hằng năm theo Nguyễn
Ngọc Tư, cũng là cách con người ta cảm thấy bớt cô đơn.