Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tiểu Thuyết Cổ Điển Minh Thanh (1).Docx
MIỄN PHÍ
Số trang
72
Kích thước
366.9 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1783

Tiểu Thuyết Cổ Điển Minh Thanh (1).Docx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Tiểu thuyết cổ điển Minh Thanh

Thời đại Minh - Thanh là một mốc quan trọng đánh dấu sự suy tàn của chế độ

phong kiến và manh nha của tư tưởng dân chủ, báo hiệu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Gắn liền với những biến đổi lớn lao của lịch sử - xã hội, đời sống văn học cũng không

ngừng thay da đổi thịt. Nhiều hình thức, thể loại văn học mới xuất hiện, trong đó sự ra

đời và phát triển của thể loại tiểu thuyết chương hồi là rầm rộ hơn cả. Thời kì này tiểu

thuyết nhiều vô kể, ước tính có đến gần một vạn tiểu thuyết ngắn, vừa, dài thuộc đủ các

loại: giảng sử có, nghĩa hiệp có, thần ma có, đời thường có… Đáng kể nhất là “Tứ đại kì

thư” gồm có: Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du kí, Hồng lâu mộng.

I. Thời đại Minh -Thanh

Sau gần một thế kỉ bị người Mông Cổ thống trị, năm 1368, Chu Nguyên Chương

đã dựng cờ khởi nghĩa, lật đổ vương triều Nguyên Mông, lập nên nhà Minh (1368 -

1644) - triều đại phong kiến Hán tộc cuối cùng của Trung Quốc.

Ban đầu, họ Chu thi hành một số chính sách nhượng bộ để phát triển nông nghiệp,

phát triển thuỷ lợi, hạn chế cường hào, khôi phuc công thương nghiệp và thủ công nghiệp

vốn đã bị tàn phá nặng nề dưới thời Nguyên Mông. Kinh tế - xã hội dần ổn định và có

chiều hướng phát triển phồn vinh ở các đời sau đó như Vĩnh Lạc (1403 - 1424), Tuyên

Đức (1426

- 1435), Gia Tĩnh (1522 - 1567). Tuy nhiên, các đời vua tiếp theo này ngày càng hủ bại.

Chúng ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ, không tin dùng hiền tài, chỉ tin vào con cháu

dòng họ. Về đối nội, chúng áp bức bóc lột nhân dân tàn khốc; về đối ngoại, chúng thi

hành chính sách bành trướng lãnh thổ với Mông Cổ ở phương Bắc và các nước ở vùng

biển Inđônêxia ở phía Nam, trong đó có Việt Nam.

Nhà Minh dần trở thành vương triều chuyên chế cực đoan, kìm hãm sự phát triển

xã hội. Cuối cùng, cuộc khởi nghĩa nông dân do Lí Tự Thành - Trương Hiến Trung lãnh

đạo đã lật đổ nhà Minh. Nhưng khi Lí Tự Thành chưa kịp củng cố chính quyền thì Ngô

Tam Quế - một đại thần triều Minh đã rước quân Mãn Thanh vào cửa ải. Chúng chiếm

Bắc Kinh rồi đánh rộng ra, chiếm toàn bộ Trung Quốc lập nên triều đại Mãn Thanh.

Nhà Thanh (1644 - 1911) là triều đại phong kiến cuối cùng, cũng là triều đại ngoại

tộc thứ hai (sau Mông Cổ) thống trị Trung Quốc. Để thống trị một đất nước rộng, dân

đông, có nền văn hoá phát triển, bọn thống trị Mãn Thanh phải thi hành một chính sách

trấn áp, nô dịch vô cùng tàn bạo nên bảy, tám năm đầu triều Thanh, Trung Quốc ngập

tràn trong máu và nước mắt.

Tuy nhiên, cũng như các bộ tộc khác xâm lược Trung Quốc, người Mãn Thanh

dần bị Hán hoá. Chúng thi hành một số chính sách nhằm khôi phục và phát triển kinh tế.

Càn Long là thời đại phần vinh nhất của đế chế Mãn Thanh, cũng là thời kì tham vọng

bành trướng của vua chúa Trung Quốc được thi hành triệt để. Tuy nhiên, tham vọng bành

trướng này càng làm cho mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên

phức tạp và sâu sắc hơn. Nhà Thanh trở thành một triều đại chuyên chế phản động, nhất

là khi mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa có từ thời Nguyên - Minh đã phát triển mạnh

mẽ và chế độ phong kiến Trung Quốc đã ở trong buổi xế chiều. Sau năm 1840, các nước

đế quốc phương Tây lần lượt nhảy vào xâu xé Trung Quốc, biến xã hội Trung Quốc dần

trở thành xã hội nửa phong kiến nửa thuộc địa.

Mặc dù có một số triều vua thịnh trị, song nhìn chung hai triều đại Minh và

Thanh là hai triều đại nằm trong quá trình suy vi tất yếu của chế độ phong kiến Trung

Quốc. Sự suy tàn này được bộc lộ trên mọi phương diện xã hội.

- Muân thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc và phức tạp

Cả thời Minh và Thanh, ruộng đất đã rơi vào tay địa chủ và quan lại. Thêm nữa,

luật pháp lại che chở cho giai cấp thống trị nên bọn chúng càng trắng trợn bóc lột nhân

dân một cách tàn bạo hơn. Kinh tế tư bản thương nghiệp thâm nhập vào các vùng nông

thôn khiến nông dân càng nhanh chóng bị bần cùng và phá sản. Đến thời nhà Thanh,

mâu thuẫn giai cấp vốn đã sâu sắc lại cộng thêm mâu thuẫn dân tộc giữa người Mãn

Thanh và người Hán bị trị. Mâu thuẫn xã hội gay gắt làm bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa

với quy mô lớn, phối hợp nhiều lực lượng như nông dân, thị dân, lực lượng vũ trang của

các địa chủ người Hán và các sĩ phu yêu nước…; một mặt chống áp bức bóc lột của bọn

địa chủ, mặt khác lại chống cả ách thống trị của ngoại tộc, chống tôn giáo và chống đế

quốc.

- Chiến tranh xâm lược

Hai triều đại Minh, Thanh là hai triều đại liên tiếp mở rộng chiến tranh xâm lược.

Hậu quả của các cuộc chiến tranh cuối cùng vẫn là sự đau khổ của nhân dân lao động.

Sưu cao, thuế nặng, lại thêm phu phen, tạp dịch, xương má của hàng triệu người dân

Trung Quốc đã làm cho mâu thuẫn xã hội vốn gat gắt lại càng căng thẳng hơn.

- Chế độ chuyên chế độc tài

Cả hai triều đại Minh, Thanh đều trở thành chế độ chuyên chế độc tài. Mọi quyền

bính đều tập trung vào tay giai cấp thống trị. Chính quyền từ trung ương đến địa phương

thực tế đều ằm trong tay một nhóm người. Đó là một chế độ chuyên chế phản động và lỗi

thời, khi mà những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghiã đã phát triển ở Trung Quốc và tư

tưởng dân chủ chống phong kiến đang bắt đầu được truyền bá rộng rãi.

Khi người Mãn Thanh xâm lược và thống trị Trung Quốc, bọn thống trị người

Mãn một mặt tập trung quyền lực vào tay vua Thanh, một mặt chúng tiếp thu tất cả chế

độ chuyên

chế của đời Minh. Chúng thi hành một chính sách thống trị tàn bạo. Đó là sự thống trị song

trùng, kết quả của nó là đã kìm hãm xã hội Trung Quốc trong vòng trì trệ.

- Chính sách văn hoá tàn bạo

Để củng cố trật tự phong kiến, thủ tiêu tinh thần phản kháng của quần chúng nhân

dân, giai cấp thống trị đời Minh cũng như đời Thanh ra sức đề cao Lí học như một thứ

quốc giáo. Nó là một thứ lí luận “đào tạo thuần dân”, “đào tạo nô lệ” rất hiệu quả.

Cùng với việc đề cao Lí học, bọn thống trị Minh Thanh còn đề xướng văn bát cổ,

dùng nó để thi cử. Chúng muốn thủ tiêu sự tự do trong tư tưởng và sáng tạo của con

người. Cách đào tạo này chỉ có thể sản sinh ra những con mọt sách chứ không phải

những nhân tài thực sự.

Trong chính sách “Văn tự ngục” tàn bạo, các nhà thơ bị hạ ngục, thậm chí bị tàn

sát vì dám mỉa mai, châm biếm chế độ. Luật Đại Minh ghi: “Phàm đào kép diễn kịch,

không được đóng vai vua chúa, hoàng hậu, cung phi, trung thần, tiết liệt. Ai vi phạm bị

phạt trăm trượng”. Đến thời nhà Thanh, giai cấp thống trị không am hiểu về văn hoá

Trung Quốc nên “ngục văn tự” liên tục xảy ra, không ít nhà thơ đã bị sát hại vì một chữ,

một câu được coi là ám chỉ chính trị.

Mâu thuẫn xã hội gay gắt, cùng chế độ chuyên chế lỗi thời và phản động, chính

sách văn hoá tàn bạo là những tiền đề rộng lớn để tiểu thuyết lựa chọn đề tài phản ánh.

Nhiều tác phẩm hiện thực châm biếm ra đời.

- Sự hình thành và phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa:

Sự hình thành và phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời đại Minh - Thanh

chẳng những thể hiện sự suy tàn của chế độ phong kiến lỗi thời mà còn là một trong

những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự ra đời của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.

Kinh tế tư bản chủ nghĩa có mầm mống từ thời Tống, Nguyên, sang Minh -

Thanh thì phát triển khá mạnh. Điều kiện sống mới của tầng lớp thị dân đã được những

thuyết thoại nhân đáp ứng bằng hình thức kể chuyện diễn kịch. Chính từ quan hệ này mà

nhiều cốt truyện dân gian về nhiều loại đề tài đã được tập hợp, định hình. Hình thức

chương hồi của tiểu thuyết cũng nảy sinh từ đây.

Sự phát triển của mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa mặt khác cũng tạo điều kiện

cho việc nảy sinh một ý thức hệ mới, chống lại ý thức hệ phong kiến truyền thống đã

đem lại nhiều sắc màu mới mẻ cho tiểu thuyết cổ điển, đặc biệt là vào thời nhà Thanh.

II. Văn học thời Minh - Thanh

Giai đoạn văn học Minh - Thanh là giai đoạn quan trọng trong lịch sử phát triển

văn học Trung Quốc, cũng là giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển văn học cổ điển,

giai đoạn dài nhất, có nội dung phong phú nhất, giai đoạn đánh dấu sự chuyển mình sang

khuynh hướng hiện đại. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn văn học này là sự suy tàn của

dòng văn học chính thống và sự nổi dậy mạnh mẽ của văn học dân chủ, tiến bộ, văn học

mang những yêu cầu và khát vọng của nhân dân, trong đó có tầng lớp thị dân mới xuất

hiện.

- Thơ, từ, tản văn:

Thơ, từ, tản văn được coi là văn học chính thống, đến thời kì này nội dung chỉ

con ca tụng công đức các đế vương, ngợi ca cảnh thanh bình của triều đại, hoặc bộc bạch

tâm sự riêng tư của các sĩ phu; còn hình thức thì hoàn toàn nệ cổ, bắt chước người xưa:

“Văn như Tần Hán, thi tất Thịnh Đường”.

Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng phục cổ và sáng tạo luôn diễn ra trên văn

đàn Minh - Thanh. Nhưng do lực lượng sáng tác thời này hầu hết đều có quyền có chức

trọng, cộng thêm sự thống trị về văn hoá nên chủ nghĩa hình thức vẫn bao trùm văn đàn.

- Bên cạnh sự suy tàn của thơ, từ, tản văn truyền thống là sự trỗi dậy mạnh mẽ

của hí khúc và tiểu thuyết, đáp ứng những đòi hỏi về đời sống tinh thần của nhân dân.

Hí khúc Minh - Thanh là loại ca vũ kịch dân tộc, còn gọi là truyền kì (khác với

truyền kì đời Đường thuộc thể loại tự sự). Hí khúc có nguồn gốc từ Nam hí khúc đời

Tống, hát theo làn điệu phương Nam, hình thức biểu diễn phức tạp hơn tạp kịch Nguyên

(nhiều màn, nhiều nhân vật, nhiều người hát hơn). Tác phẩm tiêu biểu là: Mẫu đơn đình

của Thang Hiến Tổ (1550 - 1616); Trường Sinh điện của Hồng Thăng (1645 - 1704);

Đào hoa phiến của Khổng Thượng Nhiệm

- Tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh có sự chuẩn bị dài lâu của các tiểu loại tự sự,

từ thần thoại, tản văn Tiên Tần đến Chí Quái, Chí Nhân thời Nguỵ Tấn, truyền kì đời

Đường, thoại bản Tống Nguyên. Có đến chín phần mười các bộ tiểu thuyết Minh -

Thanh lấy đề tài và cốt truyện từ thoại bản, nó trở thành một thể loại hoàn chỉnh với khối

lượng đồ sộ và phong phú.

Các tác phẩm tiêu biểu như: Tam Quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử, Tây du kí, Kim Bình

Mai, Liệt quốc chí truyện, Đông Tây hán diễn nghĩa, Nam Bắc Tống chí truyện, Phong

thần diễn nghĩa, Đông du kí, Nam du kí, Bắc du kí, Tam ngôn, nhị phách, Kim Cổ kì

quan, Thuỷ hử hậu truyện, Nhạc Phi truyện, Tuỳ Đường diễn nghĩa, Liêu trai chí dị,

Chuyện làng nho, Hồng lâu mộng, Kinh hoa duyên…

III. Tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh

1. Khái niệm

Tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh hay còn có tên gọi khác là “Tiểu thuyết

thông tục trường thiên cổ đại Trung Quốc”, “Tiểu thuyết chương hồi”. Nó phân hồi bằng

mục, đề mục; chia chương để tự sự; tình tiết vô cùng rậm rạp; nội dung có tính thông tục,

ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu; mô phỏng những đặc trưng chủ yếu của hình thức kể

chuyện từ những truyện kể trường thiên Tông Nguyên diễn hoá tới nay. Nó là một dạng

thức văn học trong tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc, khác biệt với bút kí, trường kì, bạch

thoại, đoản thiên. Nó đóng góp những thành tựu chủ yếu và điển hình cho kho tàng văn

học Trung Quốc.

2. Phân kì

- Thời kì từ Nguyên Mạc đến Minh sơ:

Đây là thời kì ra đời tiểu thuyết chương hồi. Các bộ tiểu thuyết: Tam Quốc diễn

nghĩa, Thuỷ hử, Tây du kí. Thời kì này đánh dấu bước chuyển biến từ tự sự dân gian

sang tiểu thuyết trường thiên, từ sự cảm nhận bằng thính giác sang cảm nhận bằng thị

giác, từ nghệ nhân kể sang nghệ nhân tả.

- Thời kì giữa và cuối Minh:

Đây là thời kì phát triển toàn diện của tiểu thuyết chương hồi cả về số

lượng, chất lượng, phương pháp sáng tác. Từ những sáng tác tập thể đã chuyển sang

những sáng tác mang tính cá nhân, nhãn quan đánh giá hiện thực của nhà văn được mở

rộng.Các bộ tiểu thuyết: Kim Bình Mai, Liệt Quốc chí truyện, Phong thần diễn nghĩa,

Bắc du kí, Đông du kí, Nam du kí…

- Thời kì đầu đến Trung kì nhà Thanh:

Đây là thời kì phát triển cực tịnh của tiểu thuyết chương hồi, từ nội dung

đến hình thức tác phẩm đều đạt đến trình độ cao. Các tác phẩm: Nho lâm ngoại sử, Hồng

lâu mộng…

- Thời kì cuối Thanh:

Đây là giai đoạn suy vi của tiểu thuyết chương hồi. Tiểu thuyết phương Tây

với kĩ xảo hiện đại tràn vào Trung Quốc, đã tác động không nhỏ tới sáng tác của các nhà

tiểu

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!