Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam
PREMIUM
Số trang
178
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
921

Tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

TẠ HOÀNG MINH

TIẾP NHẬN M. SÔLÔKHÔP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

TẠ HOÀNG MINH

TIẾP NHẬN M. SÔLÔKHÔP Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn học Nga

Mã số: 62 22 02 45

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. HÀ THỊ HOÀ

HÀ NỘI - 2014

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. "Trong lịch sử nhân loại nói chung, mỗi thế kỉ qua đi chỉ để lại ba, bốn hoặc

năm, sáu người được tôn vinh như thiên tài. Thế kỉ này, với chúng ta, với nước Nga -

càng để lại rất ít… Và Sôlôkhôp được xếp vào danh sách những người được chọn lọc

này" [13, 11]. Đó là nhận định của giới phê bình dành cho Mikhain Sôlôkhôp (1905 -

1984) - nhà văn hiện đại xuất sắc có vị trí quan trọng trong nền văn học Nga và văn học

thế giới thế kỉ XX. Đến với văn chương vào thời kì bùng phát những tranh cãi gay gắt

nhất về nền văn học cách mạng nhưng M. Sôlôkhôp đã "trưởng thành, trụ vững và luận

bàn về cuộc sống bằng chính giọng văn hào sảng, độc đáo của mình" [324, 65]. Ông

đem đến nền văn học thế kỉ XX một thế giới nghệ thuật rộng lớn của những số phận

con người, những cuộc đấu tranh khốc liệt, những tâm hồn với nhiều khúc rẽ quanh co,

phức tạp đan xen các sắc thái tình cảm cao quí, những khát vọng: tự do, hạnh phúc,

công bằng… Nối tiếp truyền thống L.Tônxtôi, với lối viết sáng tạo kết hợp sử thi - bi

kịch - trữ tình, các tác phẩm Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, Số phận con người…

của M. Sôlôkhôp đã nhen nhóm niềm tin, tiếp thêm sức mạnh cho con người đấu tranh

giành lấy cái mới, dạy con người có thái độ sống tích cực đối với thế giới… Sự trong

sáng và tính triết lí trong các trang sách của ông có sức lan toả mãnh liệt trong đời sống

văn hóa tinh thần của nhiều dân tộc.

1.2. Ý nghĩa thế giới các sáng tác của M. Sôlôkhôp được độc giả khắp năm châu

ghi nhận. Tuy nhiên, việc tiếp nhận các tác phẩm của ông lại là vấn đề không đơn giản.

Sông Đông êm đềm - cuốn tiểu thuyết từng đem lại vinh quang cho M. Sôlôkhôp - giải

Nobel Văn chương năm 1965 của Viện Hàn lâm Thụy Điển cũng là tác phẩm gắn với

một trong những nghi án văn chương lớn nhất thế kỉ XX. Số phận con người khi xuất

hiện từng được đánh giá là truyện ngắn đánh dấu một mốc lớn trong sự phát triển của

văn học Xô Viết và là hiện tượng văn học đặc biệt nhất trong nền văn học thế giới cũng

từng có thời gian dài rơi vào danh sách các tác phẩm thuộc "chủ nghĩa xét lại". Nhiều

thập kỉ đã qua, độc giả vẫn khó có thể quên được những cuộc chiến tranh luận khắc

nghiệt mà các tác phẩm của M. Sôlôkhôp đã phải đương đầu và giành chiến thắng vẻ

vang. Đến nay, họ vẫn tiếp tục tìm đọc và tiếp nhận M. Sôlôkhôp từ nhiều phương

diện. Việc nghiên cứu tiếp nhận, ảnh hưởng của M. Sôlôkhôp vẫn đang là vấn đề được

chú ý quan tâm trong nghiên cứu văn học.

1.3. Ở Việt Nam, M. Sôlôkhôp là tác giả văn học Nga - Xô Viết được biết đến

từ sớm, chiếm vị trí cao trong lòng người đọc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:

"Không ai có thể không yêu Sôlôkhôp. Chỉ kẻ nào không yêu cuộc sống mới tự cho

phép mình không yêu Sôlôkhôp. Sôlôkhôp là cô đọng của cuộc sống với tất cả những

mặt sáng tối vô cùng của nó, với nước mắt và những bài ca, với sự ra đời và cái chết.

Các dân tộc Nga có thể tự hào là họ đã trao cho thế giới một Sôlôkhôp, đã mở ra trong

sáng tác của ông nguồn nước trong vô tận mà mọi dân tộc trên thế giới đều có thể

uống" [204, 3]. Tuy nhiên, quá trình tiếp nhận sáng tác của M. Sôlôkhôp ở nước ta

cũng khá phức tạp, không thuần nhất, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử - chính trị -

xã hội và đặc điểm văn hoá dân tộc. Cho đến nay, việc tìm hiểu lịch sử tiếp nhận M.

Sôlôkhôp ở Việt Nam mới chỉ là những phác thảo hoặc những giới thiệu chung chung ở

một số bài viết. Trên cơ sở ứng dụng một vấn đề lí luận đang được nhiều người quan

tâm: mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - người đọc vào việc nghiên cứu sự tiếp nhận M.

Sôlôkhôp ở Việt Nam, chúng tôi mong muốn xác định và tái hiện tầm đón nhận, thị

hiếu thẩm mĩ của các thế hệ độc giả Việt Nam gần 70 năm qua. Trong bối cảnh toàn

cầu hoá nói chung và quá trình giao lưu văn hoá nói riêng, nghiên cứu những mối liên

hệ, sự ảnh hưởng giữa các tác giả, các nền văn học đang là tiêu điểm chú ý của giới

nghiên cứu văn hoá, văn học hiện nay.

1.4. Đề tài có liên quan tới công việc trực tiếp giảng dạy văn học của người viết

luận án, chúng tôi hi vọng qua việc tìm hiểu đặc điểm, quá trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp

trong dòng chảy lịch sử của nó sẽ thấy được vai trò, vị trí ảnh hưởng của nhà văn trong

tiến trình đổi mới - hiện đại hoá văn học Việt Nam, góp một tiếng nói trong nghiên

cứu, giảng dạy M. Sôlôkhôp ở giai đoạn giao lưu, hội nhập toàn cầu của đất nước hiện

nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Tiếp nhận văn học là sự tiếp xúc và tri nhận của người đọc đối với một hiện

tượng văn học, chủ yếu là tác phẩm. Với văn học nước ngoài, sự tiếp nhận văn học còn

là sự giao lưu văn hoá, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, góp phần củng

cố sự đoàn kết quốc tế và giữ gìn hoà bình cho nhân loại. Với ý nghĩa đó, luận án

hướng tới một cây bút xuất sắc của văn học Nga thế kỉ XX: M. Sôlôkhôp - người có

tầm ảnh hưởng lớn đối với văn học thế giới, trong đó có Việt Nam. Thực hiện đề tài

này, nhiệm vụ cụ thể của chúng tôi là:

2.1. Khái quát lịch sử tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam để xác định mối quan

hệ gắn bó tích cực trên cơ sở đối thoại giữa nhà văn - tác phẩm với người đọc, nhấn

mạnh chức năng xã hội của văn học.

2.2. Tìm hiểu quá trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam trong 2/3 thế kỉ qua

trên các bình diện: dịch thuật - xuất bản, nghiên cứu phê bình - ảnh hưởng sáng tác và

giảng dạy trong nhà trường.

2.3. Vận dụng lý thuyết tiếp nhận văn học để tìm hiểu cách tiếp nhận của công

chúng Việt Nam đối với sáng tác của M. Sôlôkhôp, lí giải nguyên nhân dẫn đến cách

tiếp nhận đó nhằm khẳng định vị trí, vai trò của M. Sôlôkhôp đối với đời sống tinh thần

của con người Việt Nam, ảnh hưởng đối với quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.

3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

3.1.1. Tình hình dịch thuật, xuất bản tác phẩm của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam từ

năm 1946 đến năm 2012.

3.1.2. Quá trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp trong nghiên cứu - phê bình và những

ảnh hưởng của ông trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam.

3.1.3. Việc dạy và học M. Sôlôkhôp trong nhà trường từ năm 1960 đến năm

2012 ở bậc đại học và THPT.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

3.2.1. Những tác phẩm của M. Sôlôkhôp đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam

từ năm 1946 đến năm 2012.

3.2.2. Những công trình nghiên cứu, chuyên luận về M. Sôlôkhôp đã được công bố

trên sách, báo, tạp chí, gồm những bài viết của người Việt Nam và các bài viết của người

nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt.

3.2.3. Một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam ảnh hưởng từ tác phẩm của M.

Sôlôkhôp.

3.2.4. Những bài viết về M. Sôlôkhôp trong các giáo trình, chuyên đề, sách giáo

khoa, sách giáo viên, sách tham khảo ở Việt Nam.

3.2.5. Một số công trình lý luận có liên quan đến Mỹ học tiếp nhận của các tác

giả trong và ngoài nước.

4. Cơ sở lí thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lí thuyết

Trước đây, ở phương Tây đã xuất hiện một số "công trình nghiên cứu về thị

hiếu, về độc giả…"[38, 23]. Tiếp thu thành tựu các công trình có trước, từ những năm

60 của thế kỉ XX, trường phái Konstanz (Đức) đứng đầu là Hans Robert Jauss đã xây

dựng một công trình nghiên cứu sự tiếp nhận văn học. H. R. Jauss đề nghị: "một văn

học sử mà bản chất là mang tính chủ quan, được xây dựng trên nguyên tắc và sự kiện

của sự tác động" [47, 194]. Theo Jauss: "đã đến lúc chúng ta phải có một nền văn học

sử của độc giả để hoàn thiện các khâu của quá trình văn học" [36, 50]. Mĩ học tiếp nhận

của H. R. Jauss ra đời tạo một bước ngoặt lớn cho lịch sử nghiên cứu phê bình.

Với Mĩ học tiếp nhận: "hành trình của một tác phẩm văn học thực sự bắt đầu khi

có người đọc nó… [47, 376]. Theo Jauss: tác phẩm đồng thời bao gồm hai phương

diện: văn bản với tư cách là một cấu trúc cho sẵn và sự tiếp nhận của người đọc đối với

văn bản. Như vậy, giá trị của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào phẩm chất nội tại của

bản thân tác phẩm mà còn phụ thuộc vào trình độ, cách đọc, môi trường đọc của các

thế hệ độc giả. "Những tác phẩm có cuộc sống dài lâu không chỉ đối diện với người đọc

đương thời mà còn với người đọc của thế hệ tương lai" [214, 197].

Phạm trù cơ bản của Mĩ học tiếp nhận là phạm trù công chúng tiếp nhận (người

đọc). Người đọc với tư cách là chủ thể tiếp nhận chiếm lĩnh thẩm mĩ bằng văn bản. "Sự

tồn tại lịch sử của tác phẩm văn học không thể có được nếu thiếu sự tham gia tích cực

của người đọc" [47, 396]. Trong đời sống văn học, người đọc có vai trò chủ động tích

cực. Họ đọc văn không phải chỉ để tri âm kí thác mà "là người cùng tham gia vào tiến

trình sáng tạo để xây dựng ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật, là người đồng sáng tạo, là

chủ thể thực hiện quá trình đọc như một hành động sáng tạo có tính chất xây dựng"

[214, 206]. Sự hiện diện của người đọc chi phối cả quá trình: sáng tạo - biên tập - phổ

biến - thưởng ngoạn - phê bình. "Họ làm nên một mắt xích không thể thiếu được để

hoàn thiện một chu trình khép kín: nhà văn - tác phẩm - người đọc" [166, 10].

Xét về mặt cơ cấu xã hội thì người đọc (công chúng tiếp nhận) là thành phần

không đồng nhất về nghề nghiệp, tuổi tác, trình độ văn hoá, địa vị xã hội… cho nên

tầm đón nhận (tầm văn hoá) của họ cũng khác nhau. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố

khác nhau do đặc điểm riêng của từng loại người tiếp nhận, nhìn chung công chúng

sống cùng một xã hội cũng có một tầm văn hoá chung, vì họ chịu sự chi phối của

những điều kiện kinh tế, chính trị của xã hội đó. Ở mỗi nền văn học, mỗi giai đoạn lịch

sử, công chúng văn học luôn biến đổi và sự biến đổi đó phụ thuộc vào một nhân tố

quan trọng được Mĩ học tiếp nhận gọi là "tầm đón nhận" (chân trời chờ đợi, tầm đón

đợi) của công chúng.

Tầm đón nhận là tầm văn hoá, tầm hiểu biết về văn học của người đọc. Nó là

"một tập hợp các qui chuẩn thẩm mĩ có thể tái lập được của một công chúng văn học

xác định, nó có thể và cần phải điều chỉnh được về mặt xã hội học tuỳ theo những

khuynh hướng đặc thù của các tập đoàn, tầng lớp hoặc giai cấp khác nhau và có thể đối

chiếu được với những quyền lợi và nhu cầu của tình trạng lịch sử, kinh tế chi phối

chúng" [38, 23]. "Quyết định số phận tác phẩm văn học mỗi thời kì là do tầm đón nhận

của người đọc" [166, 12].

H. R. Jauss còn đưa ra một khái niệm mới xung quanh tầm đón nhận đó là

khoảng cách thẩm mĩ. "Khoảng cách thẩm mĩ là khoảng cách chênh lệch giữa tầm đón

nhận có trước của độc giả với tác phẩm nghệ thuật mới mà sự tiếp nhận nó có thể kéo

theo một sự thay đổi tầm đón nhận, làm cho những kinh nghiệm mới được biểu hiện

lần đầu thâm nhập vào ý thức người tiếp nhận" [38, 24]. Khoảng cách thẩm mĩ được đo

bằng phản ứng của công chúng và thái độ đánh giá của giới phê bình… Khoảng cách

thẩm mĩ sẽ qui định giá trị nghệ thuật của một tác phẩm nghệ thuật. Nếu khoảng cách

này càng giãn rộng ra, tạo được một cái nhìn mới, dẫn đến hệ quả là sự thay đổi tầm thì

tác phẩm đó có giá trị nghệ thuật cao. Ngược lại, "nếu khoảng cách này bị thu hẹp, ý

thức tiếp nhận không bị buộc phải thay đổi theo tầm của kinh nghiệm chưa biết đến thì

tác phẩm sẽ tiến gần đến lĩnh vực của nghệ thuật nấu nướng, hay nghệ thuật giải trí"

[313, 65].

Là sáng tạo của nhà văn, tác phẩm được hình thành trong quá trình sáng tác,

nhưng năng lượng thẩm mĩ của nó không phải là một cái gì nhất thành bất biến. Mỗi

tác phẩm nghệ thuật đích thực như một dòng sông chảy qua không gian, thời gian, nó

mang theo những năng lượng mới do lịch sử thổi vào. "Muốn đánh giá đầy đủ sức sống

của một tác phẩm cần phải tìm hiểu lịch sử sáng tác và cả lịch sử tiếp nhận nó" [214,

206]. Giáo sư Trần Đình Sử cũng cho rằng: "không thể hiểu được nghệ thuật nếu chỉ

nhìn đến tác phẩm và hành vi sáng tạo ra nó. Nghĩa là phải hiểu nghệ thuật trong mối

liên hệ không tách rời với tiếp nhận, trong sự tiếp nhận" [243, 18]. Quan hệ tác giả - tác

phẩm và công chúng có hai chiều "tác động của tác phẩm đến công chúng, làm thay đổi

tầm đón nhận của công chúng, làm cho công chúng có sự đánh giá lại tác phẩm, qui

định lại số phận của tác phẩm"[36, 51]. Điều đó lí giải tại sao có những tác phẩm lúc

mới xuất hiện được công chúng chấp nhận ngay, nhưng sau bị lãng quên; lại có những

tác phẩm khi ra đời bị phản đối, gây tranh cãi, về sau mới được nhận hiểu, khám phá

chân giá trị và ý nghĩa to lớn của nó. Jauss cho rằng: "Việc tái lập tầm đón nhận… cho

phép ta nhận rõ sự khác biệt giải thích học giữa sự hiểu trước đây và sự hiểu ngày nay

về một tác phẩm… làm cho ý thức được lịch sử tiếp nhận nó" [313, 37].

Tóm lại, Mĩ học tiếp nhận "đặt ưu tiên ở mối quan hệ giữa văn học và người đọc,

mối quan hệ chẳng những có hàm ý thẩm mĩ mà còn có hàm ý lịch sử" [313, 56]. Mĩ học tiếp

nhận "vừa nhấn mạnh chức năng xã hội của văn học, lại vừa chú trọng đến việc xây dựng

đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm" [36, 52]. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử thì: "Việc

phát hiện ra tầm đón nhận đã cho phép nhận ra rất nhiều kiểu tiếp nhận và thái độ tiếp nhận

khác nhau… phản tiếp nhận là một cách tiếp nhận dưới một hệ hình mới" [243, 18]. Theo

ông: "Lí luận tiếp nhận giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong đời sống lịch sử của

tác phẩm văn học"[243, 18]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân cũng đề cao: "Quan điểm về

tầm đón nhận trong lí thuyết Mĩ học tiếp nhận có một ý nghĩa thực tiễn, nó giúp ta hiểu được

vai trò và tầm văn hoá của công chúng trong việc tiếp nhận văn học nghệ thuật" [38, 26].

Tuy nhiên, "lí thuyết này không phải là vạn năng. Chính bản thân Jauss cũng đã tuyên bố

rằng, Mĩ học tiếp nhận là "một phương pháp với những cơ sở vẫn còn chưa hoàn toàn chắc

chắc… nó không thể một mình đóng góp vào cái mới hiện tại của công việc nghiên cứu nghệ

thuật" [38, 24].

Từ lí thuyết tiếp nhận, chúng tôi nhận thấy sự tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt

Nam được qui định bởi đặc điểm lịch sử và văn hoá dân tộc. Quá trình tiếp nhận M.

Sôlôkhôp và các tác phẩm của ông có là sự lựa chọn - có chủ đích và hoàn toàn tự

nguyện của các chủ thể tiếp nhận... Tuy nhiên, sự tiếp nhận đó như đã nói ở trên không

thuần nhất, bị gián đoạn, đặc biệt có sự biến đổi sâu sắc về công chúng tiếp nhận, nhất

là giai đoạn đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc.

Vận dụng lí thuyết tiếp nhận, căn cứ vào lịch sử tiếp nhận và những tác động

giao thoa trong quá trình tiếp nhận, luận án cấu trúc theo chiều dài lịch sử của ba giai

đoạn tiếp nhận M. Sôlôkhôp trên ba phương diện chủ yếu nhằm phân tích sự tương tác

giữa các bình diện tiếp nhận; những đặc điểm của sự tiếp nhận ở mỗi thời kì; thấy được

bước tiến của quá trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam hơn 70 năm qua.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của luận án, đề

tài ứng dụng lí thuyết Mĩ học tiếp nhận và một số phương pháp sau đây:

Phương pháp lịch sử chức năng: giúp hỗ trợ việc xác định lại những điều kiện

lịch sử - xã hội - chính trị - kinh tế làm phát sinh, phát triển sự vật hiện tượng. Cụ thể

là: văn học Nga và trường hợp M. Sôlôkhôp được tiếp nhận ở Việt Nam trong hoàn

cảnh nào? Hoàn cảnh ấy có tác động gì tới việc tiếp thu tư tưởng nghệ thuật của

Sôlôkhôp.

Phương pháp xã hội học: giúp chúng tôi xác định lại tầm đón nhận, nhu cầu, thị

hiếu thẩm mĩ của các thế hệ độc giả khác nhau; xác lập được tiềm năng - sức sống các

sáng tác của một nhà văn nước ngoài trong lòng xã hội Việt Nam gần 70 năm qua.

Phương pháp so sánh và đối chiếu: giúp chúng tôi tiến hành những so sánh

tương đồng giữa một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam với các sáng tác của M.

Sôlôkhôp; chỉ ra những vênh lệch trong các bản dịch tác phẩm của ông ở Việt Nam.

Việc thống kê, phân tích - tổng hợp: giúp chúng tôi nhìn sự vật hiện tượng trong

một hệ thống, không sa vào chi tiết vụn vặt mà vẫn làm nổi bật được những đặc điểm

của nó.

Các phương pháp này sẽ được vận dụng kết hợp linh hoạt theo yêu cầu nội dung

cụ thể từng phần, từng chương.

5. Đóng góp mới của luận án

5.1. Về lí luận: Tái hiện lịch sử tiếp nhận M. Sôlôkhôp trong gần 70 năm ở Việt

Nam, luận án góp phần làm rõ qui luật tiếp nhận văn học luôn chịu sự chi phối của môi

trường tiếp nhận. Đề xuất cách tiếp cận mới khi đối chiếu diễn trình cập nhật hoá cách

đọc, cách hiểu M. Sôlôkhôp trên nguyên tắc đối thoại để thấy vai trò quyết định của

chủ thể tiếp nhận và khoảng cách thẩm mĩ dẫn đến sự thay đổi tầm đón nhận giữa các

thế hệ độc giả của Sôlôkhôp ở Việt Nam.

5.2. Về thực tiễn: Từ việc so sánh, đối chiếu giữa nguyên tác và các bản dịch ở

Việt Nam, luận án đã chỉ ra những vênh lệch trong quá trình dịch tác phẩm của

Sôlôkhôp. Gợi mở một số vấn đề về dịch thuật nhan đề tác phẩm và phiên âm tên nhân

vật trong tác phẩm.

Làm rõ tình thế tiếp nhận - chất lượng tiếp nhận của một số tác giả (Chu Văn,

Nguyễn Trung Thành, Bảo Ninh) để xác định những ảnh hưởng từ các sáng tác của M.

Sôlôkhôp đối với một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 và sau

1975 đến nay.

5.3. Về tư liệu: luận án là công trình sưu tầm, thống kê, hệ thống những bài giới

thiệu, nghiên cứu về M. Sôlôkhôp, những tác phẩm được dịch ở Việt Nam, được học

trong nhà trường Việt Nam. Trên cơ sở phân tích và đánh giá vấn đề tiếp nhận, tái tạo

và sáng tạo, luận án cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy về ảnh hưởng của M.

Sôlôkhôp ở nước ta.

5.4. Về giảng dạy: luận án là công trình khảo sát chương trình - giáo trình giảng

dạy, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo… về M. Sôlôkhôp ở bậc THPT và đại học; điều

tra thực tế tiếp nhận của hơn nghìn độc giả nhà trường. Từ những số liệu thu thập được,

chúng tôi rút ra một số kết luận thực tiễn về việc giảng dạy và học tập M. Sôlôkhôp

trong nhà trường Việt Nam, kiến nghị nhu cầu tiếp nhận của độc giả nhà trường, góp

phần nâng cao tầm văn hoá của người đọc trong quá trình giao lưu - hội nhập quốc tế

hiện nay.

Với những ý nghĩa trên, kết quả nghiên cứu của luận án hi vọng sẽ là một trong

những nguồn tư liệu thiết thực, tin cậy cho những người quan tâm, tìm hiểu về văn học

Nga nói chung và về sáng tác của M. Sôlôkhôp nói riêng. Trên cơ sở đó, chúng tôi

mong muốn góp phần làm rõ hơn vai trò, vị trí và ảnh hưởng to lớn của nhà văn Nga

thiên tài trong quan hệ giao lưu văn hoá, văn học với người đọc Việt Nam, đồng thời

đặt ra những yêu cầu mới trong việc tiếp nhận các tác giả, tác phẩm văn học nước

ngoài, góp phần khảng định bản lĩnh, trình độ và qui luật tiếp nhận của văn học Việt

Nam.

6. Cấu trúc của luận án

Luận án gồm 150 trang chính văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục

công trình của tác giả, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được trình bày trong 4

chương:

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.

Chương 2: Tiếp nhận M. Sôlôkhôp qua dịch thuật - xuất bản ở Việt Nam.

Chương 3: Tiếp nhận M. Sôlôkhôp qua nghiên cứu phê bình và ảnh hưởng sáng tác.

Chương 4: Tiếp nhận M. Sôlôkhôp trong nhà trường Việt Nam.

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Tiếp nhận văn học có vai trò to lớn trong quá trình hoàn thiện bức tranh lí luận

văn chương hiện đại thế kỉ XX và là xu hướng nghiên cứu chiếm ưu thế trong thế kỉ

XXI. Tiếp nhận để giao lưu, tiếp nhận là chiếc cầu nối giữa các dân tộc trên thế giới,

tiếp nhận là phương tiện để những giá trị văn hoá lan toả toàn cầu. Ở nước ta, việc

nghiên cứu sự tiếp nhận, ảnh hưởng của một nền văn học hay tác giả văn học đã xuất

hiện từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX. Có thể kể tên rất nhiều công trình như:

Maiacôpxki ở Việt Nam (Hoàng Ngọc Hiến - 1974); Bước đầu tìm hiểu quá trình phổ

biến văn học Xô Viết ở Việt Nam (Thuý Toàn - 1977); Đạo đức nhân vật trong văn học

Xô Viết và văn học Việt Nam hiện đại (Lưu Liên - 1987); Ảnh hưởng to lớn của văn

học Xô Viết ở Việt Nam (Nguyễn Hải Hà – 1987); Giao lưu văn hoá Nga - Việt Nam

dưới góc độ văn hoá (Phạm Vĩnh Cư - 1993); Văn học Nga - Xô Viết tại thành thị miền

Nam giai đoạn 1954 - 1975 (PhạmThị Phương - 1998); Về vấn đề nghiên cứu ảnh

hưởng của văn học nghệ thuật Xô Viết tới văn học nghệ thuật ở ta (Hoàng Ngọc Hiến -

1996); Thơ Pushkin trong đời sống văn học Việt Nam từ góc độ dịch nghệ thuật và tiếp

nhận văn học (Vũ Xuân Hương - 2000); Hemingway ở Việt Nam (Bùi Thị Kim Hạnh -

2001); Sự tiếp nhận kịch Xô Viết ở Việt Nam (Tất Thắng - 2001); Suy nghĩ từ việc tiếp

nhận văn học Nga thời Xô Viết ở Việt Nam (Nguyễn Văn Kha - 2001); Sự tiếp nhận

văn xuôi tự sự Trung Quốc trong văn học trung đại Việt Nam (Đinh Phan Cẩm Vân -

2002); Vấn đề tiếp nhận Dostoievski tại Việt Nam (Phạm Thị Phương - 2002); Đọc

Chekhov - sự tiếp nhận đa diện (Trần Thị Phương Phương - 2004); Văn học Việt Nam

tiếp nhận văn học Xô viết (Vũ Hồng Loan - 2005); Bước đầu tìm hiểu thơ ca Nga ở

Việt Nam (Thúy Toàn - 2005); Tiếp nhận Gogol ở Việt Nam qua bản dịch "Những linh

hồn chết" và Tiếp nhận văn học Nga - Xô viết ở Việt Nam qua trường hợp A.

Solzenitsyn (Đào Tuấn Ảnh - 2009, 2011); Tiếp nhận văn xuôi Nga thế kỉ XIX ở Việt

Nam (Trần Thị Quỳnh Nga - 2010); Cách mạng tháng Mười Nga và việc tiếp nhận Văn

học Xô viết ở Việt Nam từ sau 1945 (Phong Lê - 2010); Tiếp nhận văn học Nga và Liên

Xô ở Việt Nam những năm 1945 - 1985 (Nguyễn Bá Thành - 2011) và Sự tiếp nhận

Edgar Allan Poe ở Việt Nam (Hoàng Kim Oanh - 2011); Quan hệ giữa văn học Viêt

Nam và văn học Nga - Xô Viết thế kỷ XX (Đào Tuấn Ảnh - 2011) …

Có thể nói, nghiên cứu ảnh hưởng, sự tiếp nhận văn học Nga - Xô Viết ở Việt

Nam đã được đề cập từ sớm. Qua việc khảo sát tình hình du nhập, cách dịch, cách đọc

tác phẩm, chỉ ra những nét tương đồng hay giao thoa giữa các tác phẩm văn học Xô

Viết, trong văn học Việt Nam… các nhà nghiên cứu đã từng bước khảng định vị trí, vai

trò của của cả một nền văn học lớn cũng như từng tác giả Nga - Xô Viết trong đời sống

tinh thần của con người Việt Nam, của văn học Việt Nam. Những phương thức tiếp cận

vấn đề từ các công trình trên có ý nghĩa định hướng giúp chúng tôi triển khai để tài

Tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam.

1.2. Tài liệu tiếng Việt

Sáng tác của M. Sôlôkhôp được dịch và giới thiệu ở Việt Nam từ năm 1946.

Trong hoàn cảnh đất nước ta phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống

Mỹ suốt 30 năm (1945 - 1975) và bị chia cắt, nên tình hình tiếp nhận M. Sôlôkhôp

không thuần nhất, bị gián đoạn ở hai miền Nam - Bắc. Sự tiếp nhận sáng tác của M.

Sôlôkhôp đã được cải thiện sau ngày thống nhất đất nước (sau 1975). Tính từ năm

1946 đến năm 2012, ở Việt Nam 29 sáng tác của M. Sôlôkhôp đã được dịch và có 132

bài viết, công trình giới thiệu, nghiên cứu về nhà văn vĩ đại này. Tuy nhiên, cho đến

nay vẫn chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt

Nam. Sau đây chúng tôi sẽ điểm qua các bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến

vấn đề nghiên cứu: tiếp nhận và ảnh hưởng của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam.

Độc giả nước ta biết đến M. Sôlôkhôp trước khi có bản dịch sáng tác đầu tiên

của nhà văn ở Việt Nam (1946). Theo một số nhà văn (Như Phong, Nguyễn Đình Thi,

Tố Hữu), tiểu thuyết Đất vỡ hoang của M. Sôlôkhôp đã đến với một bộ phận độc giả

Việt Nam từ những năm 30 của thế kỉ XX. Nhà văn Vũ Ngọc Phan không thể nào

quên: "Chúng tôi có quyển Đất vỡ hoang của Sôlôkhôp bằng tiếng Pháp chép tay dày

sụ, chữ viết chân phương, nhiều trang giấy nứa đã vàng khè lại rách, phải dán ngang

dọc, có trang lại bị tàn thuốc làm cháy, vết mồ hôi tay cũng rất nhiều, chứng tỏ quyển

sách đã qua không biết bao nhiêu độc giả" [201, 592].

Năm 1946, tiểu thuyết Sông Đông êm đềm (từ đầu đến hết phần 2 quyển 1) là

tác phẩm đầu tiên của M. Sôlôkhôp được Hồng Hà dịch từ bản tiếng Pháp ra tiếng

Việt và giới thiệu trên báo Cứu quốc. Cùng năm đó, Học Phi dịch truyện ngắn Khoa

học căm thù của M. Sôlôkhôp từ bản tiếng Anh ra tiếng Việt. Qua lời giới thiệu của

dịch giả Hồng Hà, M. Sôlôkhôp mới được biết đến như là một "người Cô dăc thế hệ

mới do chiến tranh và cách mạng tạo nên" [223, 3], tiểu thuyết Sông Đông êm đềm là

"tác phẩm đồ sộ, vĩ đại, được người ta so sánh với Chiến tranh và Hoà bình của

L.Tônxtôi". Vấn đề tiếp nhận M. Sôlôkhôp chưa được đặt ra.

Trong một khoảng thời gian khá dài (1947 - 1956) tác phẩm của M. Sôlôkhôp

vắng bóng ở Việt Nam do miền Bắc dồn toàn lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp.

Từ năm 1957, tác phẩm của M. Sôlôkhôp tiếp tục được dịch và giới thiệu ở nước ta.

Các bài nghiên cứu về M. Sôlôkhôp và các sáng tác của ông cũng tăng theo từng giai

đoạn lịch sử.

Từ những năm 60 đến những năm 70 của thế kỉ XX, ngoài lời giới thiệu trong

các tác phẩm dịch còn có 39 bài viết về M. Sôlôkhôp. Nhà văn được nghiên cứu ở góc

độ chân dung - nghệ sĩ trong một số công trình của cả hai miền Nam - Bắc: Lời giới

thiệu "Truyện sông Đông" (Xuân Thương - 1958); Lời giới thiệu "Sông Đông êm đềm"

(Nguyễn Thụy Ứng - 1959); "Thử tìm hiểu Sôlôkhôp một nghệ sĩ của cuộc sống và của

thời đại" (Hoàng Trinh - 1960); "M. Sôlôkhôp giải Noben Văn chương 1965" (Tràng

Thiên - 1965); "Cholokhov và văn chương hiện đại của Nga-Sôviết" (Đào Đăng Vỹ -

1965); "M. Sôlôkhôp và giải thưởng Văn chương Noben 1965" (Bùi Ngọc Dung -

1965)…

Một số tác phẩm của Sôlôkhôp cũng được giới phê bình đề cập trong: Lời giới

thiệu về Sông Đông êm đềm của Nguyễn Thụy Ứng (1959), Lời giới thiệu về Số phận

con người (1959) của Mạnh Cầm, bài viết Đavưđôp - một nhân vật xuất sắc trong tác

phẩm Đất vỡ hoang của Hoàng Trinh năm 1960, bài viết Nhân vật Đavưđốp trong Đất

vỡ hoang của Sôlôkhôp của Chu Nga năm 1962… Tuy nhiên, những ý kiến, nhận xét về

tác phẩm, nhân vật và tác giả M. Sôlôkhôp nói trên trong thời kì này chủ yếu mang

tính xã hội học.

Từ những năm 80 của thế kỉ XX, các sáng tác của M. Sôlôkhôp được chú ý

nhiều hơn trong nghiên cứu phê bình. Ngoài những bài viết tiếp tục nghiên cứu

Sôlôkhôp dưới góc độ tác gia văn học như Nhà văn Xô Viết lỗi lạc M. Sôlôkhôp của Lê

Thành Nghị (1984), đã có những công trình nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ thi pháp.

Tiêu biểu là Tìm hiểu một vài đặc điểm về thi pháp Sôlôkhôp trong bộ tiểu thuyết sử thi

"Sông Đông êm đềm" của Huy Liên (1984); Mối quan hệ giữa cái bi kịch và cái anh

hùng trong tiểu thuyết "Họ chiến đấu vì Tổ quốc" của Nguyễn Huy Hoàng (1987); Một

số đặc điểm của không gian - thời gian nghệ thuật trong "Sông Đông êm đềm" của Lê

Ngọc Mai (1988), Thi pháp nhân vật trong "Sông Đông êm đềm" của M. Sôlôkhôp

(Nguyễn Thị Vượng - 2006)… Về xu hướng nghiên cứu sáng tác M. Sôlôkhôp theo thi

pháp học, như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Hà thì: "ba công trình ở Việt

Nam về Sôlôkhôp giữa thế kỷ trước đều dựa trên quan điểm các nhà nghiên cứu Xô

Viết những năm 50…" trong cách nghiên cứu và đánh giá hình tượng Grigôri

Mêlêkhôp, thì "vào những năm 80, giáo trình Văn học Xô Viết ở Đại học Tổng hợp Hà

Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội, đã phân tích Sông Đông êm đềm bằng thi pháp

học…" [80, 13].

Trong gần 70 năm qua, M. Sôlôkhôp và các sáng tác của ông được giới thiệu,

phân tích, nhận định khá đầy đủ, rõ nét ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu quá

trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp chưa được chính thức đặt ra. Hướng nghiên cứu tiếp nhận

M. Sôlôkhôp mới chỉ được đề cập tới từ các góc độ tiếp nhận.

Quá trình dịch thuật và giới thiệu tác phẩm của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam tuy đã

có một bề dày đáng nể nhưng cho đến nay cũng chưa có công trình nào tiến hành hệ

thống một cách cụ thể. Người đọc chỉ có thể tìm hiểu vấn đề này trong những bài tổng

kết về quá trình dịch và xuất bản văn học Xô Viết ở Việt Nam. Trong các bài viết:

Điểm qua tình hình dịch thuật và giới thiệu văn học Xô Viết ở nước ta trong mười lăm

năm (1960); Bước đầu tìm hiểu quá trình phổ biến văn học Xô Viết ở Việt Nam (1977);

Vài nét về văn học Xô Viết ở Việt Nam (1977); Điểm qua công việc dịch, giới thiệu văn

học cổ điển Nga ở Việt Nam (1994); Nhà xuất bản Văn học giới thiệu văn học Nga Xô

Viết ở Việt Nam (1994)… Thuý Toàn nhận định: "những năm 30, M. Sôlôkhôp đã dần

dần đến với các tầng lớp người đọc Việt Nam" [276, 109]. Tác giả Việt Hùng nhấn

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!