Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thực trạng về đói, nghèo của huyện Hoàng Su Phì và những giải pháp cơ bản trong công cuộc xoá đói
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới bước sang thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng
ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang tính chất toàn cầu. Nó chứa đựng
trong mình cả niềm vui nỗi bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, nỗi đau nhân
loại là nghèo đói vẫn còn trầm trọng trên một phạm vi vô cùng rộng lớn.
Nghèo, đói luôn là nỗi bất hạnh của loài người, là một nghịch lý trên con
đường phát triển. Trong khi thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn về
tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng vượt
bậc sự giàu có của con người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con
người lại chính là sự nghèo đói. Thực tế hiện nay trong hơn 6 tỷ người của thế
giới, thường xuyên có 2,8 tỷ người sống dưới mức sống 2USD/ngày, đặc biệt
có 1,2 tỷ người sống dưới mức 1USD/ngày.
Ở nước ta, sau 20 đổi mới, nền kinh tế đang từng bước khởi sắc và đã đạt
được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh khối dân cư giàu có và
trung lưu ngày một gia tăng, vẫn còn một bộ phận lớn dân cư nghèo đói. Tỷ lệ
nghèo đói ở Việt Nam còn rất cao (11% năm 2006) đang là một thách thức
lớn đối với sự phát triển và trở thành mối quan tâm chung, vấn đề cấp bách
phải giải quyết của toàn xã hội. Do đó giải quyết vấn đề giảm nghèo tạo tiền
đề cho phát triển kinh tế – xã hội, chuyển nước ta từ một nước nghèo trở
thành một nước giàu có, văn minh.
Quán triệt quan điểm của Đảng huyện Hoàng Su Phì đã luôn quan tâm
đến công tác xoá đói giảm nghèo trong suốt quá trình phát triển. Tuy đã đạt
được những thành tựu tốc độ tăng trưởng khá, xong trong nhiều năm qua vẫn
có một khoảng cách về thu nhập khá lớn. Mục tiêu của huyện Hoàng Su Phì
là tiến tới xoá hẳn tình trạng đói và giảm dần tình trạng nghèo từ nay đến năm
2010. Đây là một việc hết sức khó khăn đòi hỏi phải có sự phối hợp nỗ lực
của toàn thể cộng đồng cũng như ý trí vươn lên của chính người nghèo.
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
1
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
Qua quá trình học tập tại trường và qua một thời gian nghiên cứu thực tế
em đã nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm
nghèo đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện Hoàng Su Phì nói
riêng và của Việt Nam nói chung. Chính vì vậy là một cán bộ phòng Nội vụ -
LĐTBXH phụ trách theo dõi về công tác xoá đói giảm nghèo, em đã chọn và
nghiên cứu đề tài này đó là vấn đề: “Thực trạng về đói, nghèo của huyện
Hoàng Su Phì và những giải pháp cơ bản trong công cuộc xoá đói giảm
nghèo hiện nay”.
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 phần chính sau:
Phần I: Một số vấn đề lý luận chung về xoá đói giảm nghèo.
Phần II: Phân tích thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở huyện Hoàng Su
Phì.
Phần III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói, giảm
nghèo ở huyện Hoàng Su Phì giai đoạn 2006 - 2010.
Do nhận thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn nên chuyên đề
không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô trong khoa và của các bạn, đặc biệt là thầy giáo hướng
dẫn Mai Văn Bưu để bài viết này hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
2
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
I- CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐÓI, NGHÈO.
1- Quan niệm về đói, nghèo.
Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ
lực lượng sản xuất quyết định. Bằng lao động sản xuất, con người khai thác
thiên nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở và
những nhu cầu khác. Năng xuất lao động ngày càng cao thì của cải, vật chất
ngày càng nhiều, các nhu cầu đời sống được đáp ứng đầy đủ hơn, trái lại năng
xuất lao động thấp, của cải vật chất thu được ít, con người rơi vào cảnh nghèo
đói.
Tuy nhiên, ở trong các thời đại khác nhau, cũng có nhiều cách lý giải
khác nhau về quan niệm, nguyên nhân và cách giải quyết đối với hiện tượng
nghèo đói.
Trong thời kỳ tiền sử mông muội, loài người trong khi bức ra, tách khỏi
thế giới động vật trong giới tự nhiên để trở thành người và tổ chức thành đời
sống xã hội thì cùng với bước ngoặc ấy, con người đã phải thường xuyên đối
mặt với đói nghèo. ở đây, nghèo đói là hệ quả trực tiếp của lạc hậu, mông
muội là điển hình của sự thống trị của tự nhiên đối với con người.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê Nin, trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc nước ta, Hồ Chí Minh đã để lại cho
chúng ta những tư tưởng quý báu về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là quan
niệm của Người về chủ nghĩa xã hội là xa lạ với nghèo đói, bần cùng và lạc
hậu. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất hơn nữa,
thực hành tiết kiệm. “Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái
của hạnh phúc”. Đây là con đường lâu dài và chắc chắn đối với công tác xoá
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
3
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
đói, giảm nghèo nói riêng và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân nói
chung. Đặc biệt là tư tưởng của Người: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá, giàu, người giàu thì giàu thêm”. Theo Người, xoá đói
phải tiến tới giảm nghèo và tăng giàu. Đói, nghèo là một cửa ải phải vượt qua,
phải tiến tới giàu có, giàu có nữa giàu có mãi, “dân có giàu thì nước mới
mạnh”. Cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như một xã hội giàu có, phồn
thịnh về kinh tế, lành mạnh về xã hội, văn minh về văn hoá. Quan niệm trên
đây chứa đựng ý nghĩa giải phóng to lớn sức sản xuất, giải phóng tư tưởng và
tiềm năng xã hội, hướng tới một sự phát triển năng động của toàn xã hội vì
hạnh phúc của con người.
Nếu điểm xuất phát tới chủ nghĩa xã hội lại quá thấp và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội còn là mới mẻ, đang từng bước phải tìm tòi về con
đường, cách đi, mô hình, cách làm ... như ở nước ta thì vấn đề nghèo đói vẫn
còn tồn tại là vấn đề khó tránh khỏi.
Đối với Việt Nam để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với
các nước trên thế giới và trong khu vực, con đường phải đi của chúng ta là
phát triển rút ngắn đồng thời gắn liền với việc giảm tối đa cái giá phải trả -
trong đó có việc phải xoá đói, giảm nghèo ở Việt Nam, đó là nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2- Các khái niện về đói nghèo.
2.1- Các khái niệm về nghèo.
* Khái niệm về nghèo khổ của UNDP – 1998.
Năm 1998, UNDP công báo một bản báo cáo nhan đề “Khắc phục sự
nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo như sau:
Sự nghèo khổ của con người : Thiếu những quyền cơ bản của con người
như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ.
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
4
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
Sự nghèo khổ về tiền tệ : Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng
chi tiêu tối thiểu.
Sự nghèo khổ cực độ: Nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng
thoả mãn những nhu cầu cơ bản tối thiểu.
Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác
định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phi
lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở
những nước khác nhau.
Sự nghèo khổ tương đối: Sự nghèo khổ được xác định theo những chuẩn
mực có thể thay đổi với thời gian ở nước này hay nước khác. Ngưỡng này có
thể tăng lên đồng thời với thu nhập.
Sự nghèo khổ tuyệt đối: Sự nghèo khổ được xác định bằng một chuẩn
mực nhất định. Chẳng hạn như ngưỡng quốc tế của sự nghèo khổ là
1USD/người/ngày.
* Khái niệm về nghèo đói của Ngân hàng thế giới (WB).
Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ hàng hoá
lương thực hàng ngày trong năm 1993 và được gọi là “ngưỡng nghèo về
lương thực, thực phẩm”. Ngưỡng nghèo này thường thấp bởi vì nó không tính
đến số tiền chi tiêu cho những sản phẩm phi lương thực khác.
Ngưỡng nghèo thứ hai là “ ngưỡng nghèo chung” bao gồm cả chi tiêu
cho lương thực thực phẩm và chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực.
Xuất phát từ nhu cầu calo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể
trạng con người: WB đã đưa ra con số phổ biến được sử dụng là 2100 kilo
calo cho một người mỗi ngày. Mỗi gia đình Việt Nam phải mất bao nhiêu
tiền để mua được một rổ hàng hoá lương thực đủ để cung cấp 2100 calo cho
mỗi người một ngày. Vì vậy, nghèo đói theo định nghĩa của WB là những hộ
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
5
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
không có khả năng chi trả cho số hàng hoá lương thực của mình để đủ cung
cấp 2100 calo cho mỗi người một ngày.
* Khái niệm về nghèo đói trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương do
ESCAP tháng 9/1993.
Nghèo tuyệt đối: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu
này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục
tập quán của địa phương.
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung
bình của cộng đồng.
2.2- Các khái niệm về đói.
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc
sống. Hay có thể nói đói là một nấc thấp nhất của nghèo.
Tài liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phân loại đói làm
hai dạng (theo mốc đánh giá năm 1993):
Thiếu đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập dưới mức
thu nhập là 12 kg gạo/người/tháng. Hay là tình trạng của một bộ phận dân cư
ở nông thôn có thu nhập dưới mức 20.400 đồng/người/tháng và ở thành thị là
24.500 đồng/người/tháng.
Đói gay gắt: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập dưới
mức 8 kg gạo/người/tháng và ở thành thị là 16.300 đồng/người/tháng.
Ngoài ra còn có khái niệm khác nhằm làm rõ hơn tình trạng nghèo đói ở
Việt Nam.
Nghèo đói kinh niên: (tương ứng với nghèo truyền từ đời này qua đời
khác) là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền cho tới thời điểm đang xét.
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
6
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
Nghèo đói cấp tính: (hay còn gọi là nghèo mới ) là bộ phận dân cư rơi
vào tình trạng nghèo đói đột xuất vì nhiều nguyên nhân như phá sản và các rủi
ro, thiên tai khác tại thời điểm đang xét.
II- CÁC QUAN NIỆM VỀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO.
1- Khái niệm về xoá đói, giảm nghèo.
1.1- Khái niệm về xoá đói.
Xoá đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống,
từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm
bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
1.2- Khái niệm giảm nghèo.
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng
bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng
người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác giảm nghèo là quá trình chuyển
bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
Ở khía cạnh khác Giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa
chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống
mọi mặt của mỗi người.
Ở góc độ nước nghèo: Giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước thực
hiện quá trình chuyển đổi trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã
hội sang trình độ sản xuất mới, cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản
xuất tiến tiến của thời đại.
Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ
người có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh
nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình
trạng nghèo hiện tại.
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
7
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
2- Phương pháp tính thu nhập bình quân đầu người.
N= =
Trong đó:
N: Thu nhập bình quân một người trong hộ;
Q: Tổng thu nhập (tổng doanh thu);
∑N: Số người trong hộ;
Qc: Tổng chi phí (gồm chi phí vật chất cho sản xuất, kể cả tiền công thuê
mướn lao động và các khoản nộp thuế, lệ phí theo quy định nếu có);
QT: Tổng thu nhập thuần tuý.
(Thu nhập bình quân đầu người bằng tổng doanh thu trừ tổng chi phí vật
chất chia cho số người trong hộ).
3- Các tiêu thức và chuẩn mực đánh giá nghèo đói.
3.1- Các tiêu thức đánh giá nghèo đói.
Để xác định ngưỡng nghèo có nhiều chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá khác nhau.
Tiêu thức về chỉ tiêu chất lượng cuộc sống (PQLI) chỉ số PQLI bao gồm
ba mục tiêu cơ bản là tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và tỷ lệ mù chữ.
Tiêu thức về chỉ tiêu phát triển con người (HDI) do UNDP đưa ra của hệ
thống ba mục tiêu: Tuổi thọ, tình trạng biết chữ người lớn, thu nhập bình quân
trên đầu người trong năm.
Tiêu thức về chỉ tiêu nhu cầu dinh dưỡng: Tính mức tiêu dùng quy ra
kilocalo cho một người trong một ngày.
Tiêu thức về thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người: Đây là
chỉ tiêu chính mà hiện nay nhiều nước và tổ chức quốc tế đang dùng để xác
định giàu nghèo. Tại đại hội lần thứ II của Uỷ ban giảm nghèo khu vực
(ESAP) họp tại Bang Koc tháng 9/1995, Ngân hàng thế giới đưa ra chuẩn
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
8
Chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp
mực nghèo khổ chung của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới 370
USD/ người/năm.
Tóm lại, sự kết hợp chỉ tiêu GDP, HDI, và PQLI cho phép nhìn nhận các
nước giàu, nghèo chính xác và khách quan hơn. Bởi nó cho phép đánh giá
khách qua, toàn diện của con người trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội.
3.2- Mức chuẩn đánh giá nghèo đói.
a- Mức chuẩn nghèo đói đối với quốc tế (đánh giá nước giàu, nước
nghèo).
Ở một khía cạnh khác nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế -
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực,
một vùng, miền. Các chỉ số xác định thế nào là nghèo cho biết trình độ phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và trình độ lực lượng sản xuất nói riêng ở
vùng, miền, quốc gia đó ở tại một thời điểm nhất định.
Ví dụ: Với chỉ số nghèo là 500 USD/người/ năm cho biết đây là nước
đang phát triển. Với chỉ số nghèo là 13.000 USD/người/năm cho biết đây là
nước phát triển.
Như vậy trên thế giới tương đương với ba nhóm nước có ba dạng nghèo
khác nhau: Nghèo ở các nước có trình độ kinh tế phát triển cao, nghèo ở các
nước có trình độ phát triển kinh tế chậm và nghèo ở các nước có trình độ phát
triển kinh tế trung bình. Việc phân định ba dạng nghèo như vậy có ý nghĩa rất
lớn trong việc xem xét đánh giá nghèo ở mỗi nước thuộc dạng nào, tương ứng
với trình độ phát triển kinh tế – xã hội nào để có cách nhìn tổng quát trong
quá trình giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo.
Với cách đánh giá nghèo như trên, nghèo ở Việt Nam mang đầy đủ
những đặc trưng cơ bản này nhưng nổi bật ở hai đặc trưng sau:
- Nghèo dai dẳng kéo dài, nghèo từ đời nay sang đời khác.
Sinh viên: Nguyễn Xuân Tình – K36 định kỳ
9