Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Giỏ trị sản xuất (triệu USD)
Năm
Giỏ trị xuất khẩu (triệu USD) LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính tất yếu
Xu thế toàn cầu hóa, HNKTQT và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật
của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn
nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế khu vực và
quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý
chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế
thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Gia nhập WTO là
cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với NCNĐT Việt Nam. CNĐT Việt Nam bên
cạnh những cơ hội mới với khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, khả năng thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ sẽ phải đối mặt với những thách thức
to lớn xuất phát từ các quy định của WTO về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ. Nâng cao năng lực cạnh tranh là giải pháp then chốt để kinh tế nói
chung và CNĐT nói riêng có thể hội nhập thành công
Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 đã
nêu rõ, ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định trong phát
triển nền kinh tế, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại với một số ngành công nghiệp chế tác tham gia vào nhóm nước đứng đầu
trong khu vực. Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu đó, cần phát triển phù hợp
cho những ngành sản xuất có hiệu quả (điện tử, điện tử-Tin học, cơ điện tử), để
trở thành các ngành mũi nhọn. Bắt đầu từ những năm giữa thập niên 90, chính
phủ Việt Nam đã “bắt tay” vào xây dựng một ngành công nghiệp điện tử cho Việt
Nam, nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu kinh tế thì chưa thể khẳng định là đã có
ngành công nghiệp điện tử tại Việt Nam. Do hàng điện tử Việt Nam với chất
lượng còn thấp và không ổn định, giá cả lại cao do đó, chưa khai thác được hết
tiềm năng và thế mạnh của ngành. Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển
của thị trường hàng điện tử Việt Nam sẽ bị tác động mạnh bởi xu thế toàn cầu
hoá, tự do hoá thương mại và xu thế chuyển giao công nghệ nhanh, đặc biệt là khi
Việt Nam thực hiện lịch trình giảm thuế quan theo quy định của WTO đối với
mặt hàng điện tử.
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO” được chọn để nghiên
cứu.
2. Mục đích
Đề tài phân tích sức cạnh tranh hàng điện tử của một số nước chủ yếu trên thế
giới, tổng hợp và phân tích các số liệu thống kê nhằm phác họa những nét cơ bản nhất
về sức cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam và cũng phân tích một cách
chi tiết về những khó khăn làm cho ngành công nghiệp điện tử Việt Nam chưa nâng cao
được sức cạnh tranh trên thị trường công nghiệp điện tử trong nước và thế giới.
Từ những kiến thức đã tổng hợp và phân tích, chuyên đề mạnh dạn đưa ra một số
giải pháp góp phần nâng cao sức cạnh tranh sau khi Việt Nam gia nhập WTO của ngành
công nghiệp điện tử trên thị trường.
3. Đối tượng và phạm vi
1
Chuyên đề tập trung phân tích giá cả, chất lượng, marketing, thực hiện quản lý tài
chính, môi trường cạnh tranh ngành…của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ
những năm 1990 trở lại đây (do đây là thời kỳ ngành công nghiệp Việt Nam mà trong
đó có ngành công nghiệp điện tử bắt đầu phát triển về quy mô, sản lượng và trong
những năm này Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia và khu vực lớn trên
thế giới).
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác- Lê Nin làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Đồng thời đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh.
Nguồn thông tin sử dụng trong chuyên đề được thu thập chủ yếu từ các trang
web của Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử (VEIA), Bộ Công nghiệp, Canon,
Panasonic,Công ty điện tử Hà Nội, tài liệu của Hội điện tử, tin học, Hiệp hội phần mềm,
Hội tin học HCM…
5. Kết cấu và nội dung
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
chuyên đề được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh
nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước
Chương 2: Tình hình cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ 1990
đến nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản xuất ngành
công nghiệp điện tử sau khi Việt Nam gia nhập WTO
2
Chương 1. Cơ sở lí luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh
nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước
1.1 Lí luận chung về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Về phương diện kinh tế, cạnh tranh chỉ có thể xuất hiện trong điều kiện của cơ
chế thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh
hồn sống của thị trường.
P.Samuelson cho rằng “Cạnh tranh là sự đối đầu giữa các DN cạnh tranh với
nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”.
Các học thuyết kinh tế thị trường, dù ở trường phái nào đều thừa nhận rằng, cạnh
tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu và giá cả
hàng hoá là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị
trường, cạnh tranh là linh hồn của sản phẩm. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là
động lực phát triển nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác nhau,
cho nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Có thể dẫn ra một số quan điểm như
sau:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi
biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất,
thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh
tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận.
1.1.1.2. Các khái niệm liên quan
a. Sức cạnh tranh
Tương tự như cạnh tranh, hiện nay cũng còn nhiều luận điểm khác nhau liên quan
đến sức cạnh tranh.
Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản
phẩn trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh
tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội
của nó so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường.
Lại có quan điểm cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm
giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem
ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác đem đến
tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian nhất định.
Tuy nhiên, tất cả các định nghĩa trên đều thiếu một yếu tố cơ bản mà người tiêu
dùng quan tâm nhất, đó là, tương quan giữa chất lượng và giá cả.
Với cách tiếp cận trên, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so
với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia
cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản phẩm
mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả năng
cạnh tranh cao hơn.
3
b. Năng lực cạnh tranh
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, HNKTQT, năng lực cạnh tranh là một khái niệm
quan trọng để chỉ khả năng tăng trởng và phát triển của nền kinh tế hay DN trên thị
trờng trong nớc và quốc tế. Bản chất của năng lực cạnh tranh là sự kết hợp chặt chẽ giữa
quản lý nhà nước và điều hành doanh nghiệp để tạo ra giá trị gia tăng cao nhất trên một
đơn vị đầu vào (như tiền vốn, lao động, năng lượng...).
Khái niệm năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành bởi nhiều
yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô. Một sản phẩm có thể năm
nay được đánh giá là có năng lực cạnh tranh, nhưng năm sau, hoặc năm sau nữa lại
không còn khả năng cạnh tranh nếu không giữ được các yếu tố lợi thế.
Năng lực cạnh tranh của DN có thể được định nghĩa là năng lực tồn tại, duy trì
hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trờng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ
của DN. Có nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của DN, trong đó cần phân
biệt các yếu tố ngoài DN và các yếu tố do DN chi phối.
c. Khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh là sự năng động, khả năng đáp ứng thay đổi nhanh chóng
của thị trường, năng lực sản xuất dựa trên công nghệ là nền tảng để sống còn và phát
triển.
d. Chất lượng sản phẩm
Khi nêu câu hỏi “thế nào là chất lượng sản phẩm”, chất lượng thường
nhận được rất nhiều câu trả lời khác nhau tùy theo đối tượng được hỏi là ai. Các
câu trả lời thường thấy như:
Đó là những gì họ được thỏa mãn tương đương với số tiền họ chi trả. Đó là
những gì họ muốn được thỏa mãn nhiều hơn so với số tiền họ chi trả. Sản phẩm
phải đạt hoặc vượt trình độ của khu vực, hay tương đương hoặc vượt trình độ thế
giới.
Một số định nghĩa về chất lượng thường gặp :
Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu
dùng. (European Organization for Quality Control). Hay chất lượng là sự phù
hợp với yêu cầu. (Philip B. Crosby) và chất lượng là tập hợp các đặc tính của một
thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu
cầu tiềm ẩn. (ISO 8402) ( thực thể trong định nghĩa trên được hiểu là sản phẩm
theo nghĩa rộng).
Trên thực tế, nhu cầu có thể thay đổi theo thời gian, vì thế, cần xem xét
định kỳ các yêu cầu chất lượng để có thể bảo đảm lúc nào sản phẩm của DN làm
ra cũng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
Các nhu cầu thường được chuyển thành các đặc tính với các tiêu chuẩn
nhất định. Nhu cầu có thể bao gồm tính năng sử dụng, tính dễ sử dụng, tính sẵn
sàng, độ tin cậy, tính thuận tiện và dễ dàng trong sửa chữa, tính an toàn, thẩm
mỹ, các tác động đến môi trường.
Các DN sản xuất hoặc mua sản phẩm để bán lại trên thị trường cho người
tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận, vì thế, quan niệm của người tiêu dùng về
chất lượng phải được nắm bắt đầy đủ và kịp thời. Dưới quan điểm của người tiêu
dùng, chất lượng sản phẩm phải thể hiện các khía cạnh sau :
4
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể hiện tính
năng kỹ thuật hay tính hữu dụng của nó. Chất lượng sản phẩm được thể hiện
cùng với chi phí. Người tiêu dùng không chấp nhận mua một sản phẩm với bất kỳ
giá nào. Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện tiêu dùng cụ thể
của từng người, từng địa phương. Phong tục, tập quán của một cộng đồng có thể
phủ định hoàn toàn những thứ mà thông thường người ta xem là có chất lượng.
Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu như sau : Chất lượng sản phẩm là tổng
hợp những chỉ tiêu, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện mức thỏa mãn
những nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định.
Một cách tổng quát, có thể hiểu chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu. Sự
phù hợp nầy phải được thể hiện trên cả 3 phương diện, có thể gọi tóm tắt là 3P,
đó là : Performance hay Perfectibility : hiệu năng, khả năng hoàn thiện, Price :
giá thỏa mãn nhu cầu, Punctuallity : đúng thời điểm.
f. Giá trị sử dụng (tính hữu dụng của sản phẩm)
Khi muốn tung một sản phẩm mới vào thị trường, trước hết nhà sản xuất
phải hoạch định trình độ chất lượng, dự kiến mức chất lượng, tiên đoán chất
lượng kinh tế của sản phẩm. Sau đó sản xuất thử và thử nghiệm trên thương
trường. Khi đã biết khá chính xác hệ số hiệu quả sử dụng của sản phẩm có khả
năng cạnh tranh và nằm trong phạm vi chất lượng tối ưu, các nhà sản xuất mới
tiến hành sản xuất hàng loạt sản phẩm đó. Mặt khác, khi mua một sản
phẩm,người tiêu dùng bao giờ cũng quan tâm đến lợi ích hay tính hữu dụng, hay
giá trị sử dụng mà họ mong muốn thu được khi sử dụng sản phẩm
Theo Karl Mark, công dụng của một vật làm cho vật đó trở thành một giá trị sử
dụng. Giá trị sử dụng của sản phẩm phụ thuộc vào công dụng của nó, nhưng chính công
dụng lại phụ thuộc vào nhu cầu xã hội. Nếu không có nhu cầu về một giá trị sử dụng thì
mặc dù sản phẩm có công dụng cũng không có giá trị sử dụng. Giới hạn của giá trị sử
dụng chính là nhu cầu tồn tại về nó.
Ngày nay, có thể nhận thức thuộc tính công dụng không phải là yếu tố duy
nhất tạo nên giá trị sử dụng của sản phẩm. Khi người tiêu dùng mua hàng hóa,
thực chất họ muốn mua cái gì đó hơn là chính bản thân sản phẩm.
Theo P.A.Samuelson: “Giá trị sử dụng là một khái niệm trừu tượng để chỉ
tính thích thú chủ quan, tính hữu ích hoặc một sự thỏa mãn do tiêu dùng hàng
hóa mà có.” Giá trị sử dụng là sự cảm nhận của một cá nhân về sự thỏa mãn nhu
cầu và sự thích thú của mình thông qua việc sử dụng một sản phẩm vật chất hay
một dịch vụ.
Giá trị sử dụng của sản phẩm phụ thuộc vào:
Thuộc tính công dụng của sản phẩm, được tạo ra bởi chất thể của sản phẩm, do
đặc tính kỹ thuật của sản phẩm qui định. Thuộc tính công dụng được gọi là phần cứng
của sản phẩm.
Thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng, là những gì mà người tiêu dùng
cảm thấy có nơi sản phẩm, được tạo ra nhờ dịch vụ bán và sau khi bán. Thuộc tính được
thụ cảm bởi người tiêu dùng được gọi là phần mềm của sản phẩm. Nhiều khi người tiêu
dùng mua sản phẩm không đơn thuần vì những đặc tính kỹ thuật và khả năng phục vụ
của sản phẩm mà có thể vì nó làm cho người mua có cảm giác sang trọng phù hợp với
5
địa vị xã hội của họ hay một cảm giác nào đó mang lại cho khách hàng sự thích thú nào
đó của riêng họ.
Thực tế kinh doanh cho thấy thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng
là một bộ phận quan trọng cấu thành nên giá trị sử dụng của sản phẩm và là yếu
tố phải đặc biệt chú ý khi đưa sản phẩm của mình tham gia thị trường.
Giá trị sử dụng của sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lượng
hàng cung so với cầu, sức mua, ý muốn sẳn sàng mua...Nếu cung nhỏ hơn cầu,
phần mềm của sản phẩm tăng lên. Các nhà đầu cơ thường lợi dụng cách nầy để
tăng giá sản phẩm trong thị thị trường độc quyền để thu lợi bất chính. Nếu cung
lớn hơn cầu, phần mềm của sản phẩm giảm đi, đồng thời giá trị sử dụng cũng
giảm theo.
Tóm lại :
Công dụng của sản phẩm + sự thích thú, sự thụ cảm của người tiêu dùng
Giá trị sử dụng của sản phẩm
Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm nói lên khả năng có thể thỏa mãn nhu
cầu của sản phẩm trong khi đó giá trị sử dụng của sản phẩm chính là mức cụ thể
đáp ứng nhu cầu trong tiêu dùng.
Qua các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm có thể nhận biết được: Công dụng cơ
bản của sản phẩm, các đặc điểm về kết cấu hình dáng, kích thước, điều kiện sử
dụng, các thông số kỹ thuật của sản phẩm, các chỉ tiêu kinh tế của sản phẩm.
Trong khi đó, các thuộc tính của sản phẩm (cả phần cứng và phần mềm)
cho biết: Lĩnh vực đại thể các nhu cầu được thỏa mãn, lĩnh vực cụ thể và mức cụ
thể các nhu cầu được thỏa mãn, các thuộc tính của sản phẩm được thụ cảm bởi
người tiêu dùng , chi phí để thỏa mãn nhu cầu, người tiêu dùng lúc nào cũng
mong muốn đạt được lợi ích (giá trị sử dụng) tối đa với chi phí bỏ ra tối thiểu.
1.1.2. Các điều kiện cơ bản cho hoạt động cạnh tranh
Nhu cầu về lợi nhuận là động lực nảy sinh và thúc đẩy cạnh tranh: Những năm
gần đây, do lợi nhuận cao và do tầm chiến lược của CNĐT đối với nền kinh tế, nhiều
nước đã đổ xô vào phát triển CNĐT, dẫn đến khủng hoảng thừa các sản phẩm điện tử
thông dụng. Tuy nhiên, về lâu dài thị trường hàng điện tử thế giới vẫn rộng mở không
ngừng cho các sản phẩm công nghệ cao, hiện đại, có những tính năng mới, nổi trội,
thông minh.
Kinh tế thị trường tạo môi trường cho hoạt động cạnh tranh. Việc chuyển sang
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các DN, các tổ chức và cá nhân
kinh doanh phải thích ứng với quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường, trong đó có
yếu tố cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế và cũng là cơ
sở quan trọng đảm bảo tự do kinh doanh hợp pháp và mang lại lợi ích thiết thực cho
người tiêu dùng. Cạnh tranh trong nội ngành dẫn đến lợi nhuận bình quân ngành. Cạnh
tranh giữa các ngành khác nhau sẽ dẫn tới sự thay đổi mặt bằng giá của nền kinh tế đó.
Trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh giữa các ngành khác nhau của các quốc gia khác
nhau cũng dẫn đến mặt bằng giá khác nhau theo các thời kỳ căn cứ vào năng suất lao
động của thời kỳ đó. Do đó giá cả liên quan rất chặt chẽ đến năng suất lao động và cạnh
tranh
6
Sự can thiệp hợp lí của nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động cạnh tranh có
hiệu quả. Hiện tại, Luật cạnh tranh là khuôn khổ pháp lý cao nhất điều chỉnh về cạnh
tranh thương mại tại Việt Nam.
1.1.3. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh
1.1.3.1. Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh (hay sức cạnh tranh được sử dụng với nghĩa như nhau trong
đề tài). Thuật ngữ về năng lực cạnh tranh tuy được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn chưa có
một khái niệm rõ ràng hay cách thức đo lường năng lực cạnh tranh cả ở cấp quốc gia,
cấp ngành, DN và ở cấp sản phẩm.
Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản
phẩn trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh
tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu.
Theo quan điểm tân cổ điển dựa trên lí thuyết thương mại truyền thống, năng lực
cạnh tranh của ngành được xem xét được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất
và năng xuất. Hiệu quả của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá
dựa trên chi phí thấp. Chi phí sản xuất thấp không chỉ là điều kiện cơ bản của lợi thế
cạnh tranh mà còn đóng góp tích cực vào nền kinh tế.
Lý thuyết tài chính CN xem xét năng lực cạnh tranh của ngành dựa trên khả năng
sản xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà
không có sự tự cấp, đảm bảo cho ngành đứng vững trước các đối thủ khác hay sản phẩm
thay thế.
Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng lực canh
tranh là khả năng tạo ra, duy trì lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài
nước. Các chỉ số đánh giá là năng suất lao động, tổng năng suất của các yếu tố sản xuất,
công nghệ, chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng và tính khác biệt của sản
phẩm.
1.1.3.2. Các cấp độ cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể phân ra làm 4 cấp độ, năng lực cạnh tranh ở 4 cấp dộ
này có liên quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét và đánh
giá, đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, cần có mối liên quan
chung mật thiết của 4 cấp độ năng lực cạnh tranh này.
Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia:
Năng lực cạnh tranh quốc gia gồm một hệ thống chỉ số - cũng còn gọi là chỉ số
năng lực cạnh tranh tổng hợp (GCI) được WEF công bố lần đầu tiên trong Báo cáo năng
lực cạnh tranh toàn cầu năm 2004-2005. Các chỉ số này được phân làm chín nhóm, còn
được gọi là chín trụ cột thể hiện năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Chín trụ cột
đó gồm: (1) thể chế, (2) kết cấu hạ tầng, (3) kinh tế vĩ mô, (4) y tế và giáo dục cơ bản,
(5) đào tạo và giáo dục bậc cao, (6) hiệu quả thị trường, (7) mức độ sẵn sàng về công
nghệ, (8) trình độ kinh doanh, (9) đổi mới và sáng tạo.
Theo công bố của WEF, báo cáo tách các nước thành ba giai đoạn phát triển: ở
giai đoạn phát triển thứ nhất, năng lực cạnh tranh của các nước phụ thuộc vào bốn trụ
cột đầu tiên là thể chế, kết cấu hạ tầng, kinh tế vĩ mô và giáo dục cơ bản, giai đoạn tiếp
theo tính đến ba trụ cột là đào tạo và giáo dục bậc cao, hiệu quả thị trường và mức độ
sẵn sàng về công nghệ, đến giai đoạn phát triển cao nhất gồm hai trụ cột là trình độ kinh
7
doanh và đổi mới và sáng tạo. Tầm quan trọng của từng yếu tố (trụ cột) lại phụ thuộc
vào mỗi giai đoạn phát triển của mỗi nước.
Bảng 1.1: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên tổng số 125 quốc gia
Năm Xếp hạng
2004 61
2005 74
2006 77
Nguồn: Trang web Bộ Công nghiệp
Năm 2006, VN tụt ba hạng so với năm 2005, trong đó, trình độ đổi mới và sáng
tạo tụt 18 hạng, hiệu quả thị trường tụt 17 hạng, thể chế tụt 11 hạng. Qua đó, có thể
thấy: VN đang ở giai đoạn phát triển thứ nhất, vì chỉ số thể chế xếp thứ 74, kết cấu hạ
tầng thứ 83, kinh tế vĩ mô thứ 53 và y tế, giáo dục cấp một thứ 58. Về giáo dục đại học,
VN xếp thứ 90, mức độ sẵn sàng về công nghệ thứ 85. Ở hai trụ cột còn lại, VN xếp thứ
86 về trình độ kinh doanh và thứ 75 về đổi mới và sáng tạo. Kết quả xếp hạng năm 2006
của WEF có thể chưa phản ánh hết những nỗ lực cải cách của VN năm 2006, như việc
Luật DN và Luật Đầu tư bắt đầu có hiệu lực thi hành cũng với nhiều cải cách khác trong
kinh tế theo hướng thị trường, nhưng cũng là những cảnh báo để chúng ta chú ý, vì
trong khi Việt Nam có tiến bộ trong đổi mới thì các nước cũng có những cải cách nhanh
hơn, do đó vị trí Việt Nam trong xếp hạng chưa được cải thiện.
Năng lực cạnh tranh cấp ngành:
Khả năng cạnh tranh có thể được đánh giá bằng các chỉ số định lượng như:
Tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu và lợi thế so sánh biểu hiện. Trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế, chỉ số ERP giúp chúng ta xác định được các ngành nào sẽ có lợi thế và
bất lợi thế do những thay đổi CS liên quan đến tự do hoá thương mại. Chỉ số
RCA càng cao thì mặt hàng càng có lợi thế cạnh tranh, nếu RCA <1 thì mặt hàng
không có lợi thế so sánh, nếu 1 < RCA < 2,5 thì mặt hàng có lợi thế so sánh và
RCA > 2,5 thì mặt hàng có lợi thế cạnh tranh cao. Kết quả nghiên cứu của nhóm
kỹ thuật.
Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của ngành trong nước tạo thành năng lực
cạnh tranh của quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của ngành bị hạn chế bị hạn chế khi
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hóa mà ngành
sản xuất ra thấp.mặt khác, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia thể hiện qua môi trường
cạnh tranh, cạnh tranh trong nước và quốc tế, đặc biệt là trong WTO hiện nay. Trong đó,
các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế các CS kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có
ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành, DN, và sản phẩm hàng hóa quốc
gia đó.
Tóm lại một ngành có năng lực cạnh tranh nếu có “năng lực duy trì được lợi nhuận
và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước”. Trong phạm vi nghiên cứu của đề
án, chỉ tập trung nghiên cứu khả năng cạnh tranh ngành, DN và sản phẩm.
Trong thực tế, quá trình điều chỉnh của ngành diễn ra cùng với những biến đổi về
môi trường cạnh tranh kinh tế nói chung. Khả năng cạnh tranh của ngành phụ thuộc vào
yếu tố do ngành tự quyết định nhưng nó cũng phụ thuộc vào các yếu tố do Chính phủ
quyết định. Nó cũng phụ thuộc vào cả những yếu tố mà cả Chính phủ và ngành chỉ kiểm
soát được ở một mức độ hạn chế hoặc hoàn toàn không thể quyết định được.
8
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành được chia thành 4 nhóm:
Nhóm các yếu tố do ngành quyết định: bao gồm chiến lược phát triển ngành, sản
phẩm chế tạo, lựa chọn công nghệ, đào tạo cán bộ,đầu tư nghiên cứu công nghệ, phát
triển sản phẩm, chi phí sản xuất và quan hệ với bạn hàng.
Nhóm các yếu tố do Chính phủ quyết định, tạo ra môi trường kinh doanh bao gồm:
thuế, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái, chi ngân sách cho hoạt động nghiên cứu và
triển khai, hệ thống luật phát điều chỉnh quan hệ giữa các bên tham gia thị trường...
Nhóm các yếu mà cả Chính phủ và ngành chỉ quyết định được một phần như: nhân
lực sản xuất, nhu cầu người tiêu dùng, môi trường thương mại quốc tế..
Nhóm các yếu tố mà cả Chính phủ và ngành không quyết định được như: môi
trường tự nhiên, quy luật kinh tế...
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trước hết cần thấy rõ năng lực từ
chính bản thân ngành và một phần quan trọng khác là các chính sách của nhà nước
nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi.
Năng lực cạnh tranh ở cấp DN:
Năng lực cạnh tranh của DN là thể hiện thực lực và lợi thế của DN so với đối thủ cạnh
tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn.
Như vậy, năng lực cạnh tranh của DN trước hết phải được tạo ra từ thực lực của DN. Đây là
các yếu tố nội hàm của mỗi DN, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài
chính, nhân lực, tổ chức quản trị DN… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các
đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô
nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong DN được đánh giá không thông qua việc
so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo
nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi DN phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình.
Nhờ lợi thế này, DN có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như
lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một DN nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những
yêu cầu của khách hàng. Thường thì DN có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt
khác. Vần đề cơ bản là, DN phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những
điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những
điểm mạnh và điểm yếu bên trong một DN được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt
động chủ yếu của DN như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị,
hệ thống thông tin…Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một DN, cần phải
xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động
khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các DN hoạt
động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá
năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh
giá năng lực cạnh tranh của một DN bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ, chất lượng
sản phẩm và bao gói, kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng, thông tin và xúc
tiến thương mại, năng lực nghiên cứu và phát triển, thương hiệu và uy tín của DN, trình
độ lao động, thị phần sản phẩm DN và tốc độ tăng trưởng thị phần, vị thế tài chính,
năng lực tổ chức và quản trị DN nhưng trong để tài chỉ nghiên cứu năng lực cạnh tranh
dưới 3 loại cạnh tranh cơ bản:
9
Cạnh tranh bằng giá trị sử dụng (chất lượng, tính năng, mẫu mã,..). Để phát triển,
các DN phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm - hàng
hóa - dịch vụ, đồng thời không ngừng nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới, tạo ra những
đặc trưng khác biệt của sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ để thoả mãn tốt nhất nhu cầu
khách hàng, nhằm duy trì và mở rộng thị trường. Các đặc điểm trên đã làm cho chất
lượng trở thành một yếu tố cạnh tranh hàng đầu. Nhiều công ty đã chuyển vốn đầu tư
vào các khu vực có khả năng thoả mãn khách hàng và đem lại lợi nhuận cao. Sản phẩm
có thể được thiết kế tại một nước, sản xuất tại một số nước khác và bán ở mọi nơi trên
thế giới. Thực tế đã chứng minh rằng, các công ty thành công trên thương trường đều là
những công ty đã nhận thức và giải quyết tốt bài toán chất lượng. Sự phát triển của khoa
học và công nghệ ngày nay đã tạo cơ hội cho các nhà sản xuất kinh doanh nhạy bén tận
dụng lợi thế riêng của mình, cung cấp những sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ có chất
lượng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và tạo lợi thế cạnh tranh
trên thương trường.
Cạnh tranh bằng giá cả: Bất kỳ nhà kinh doanh nào khi tham gia thị trường
đều quan tâm đến vấn đề cạnh tranh giá cả là chủ yếu hay chất lượng là chủ yếu.
Về đại thể, giá cả là một chỉ tiêu quan trọng trong cạnh tranh, dù cho chất lượng
sản phẩm có hoàn hảo bao nhiêu đi nữa. Ngày nay, các nhà kinh doanh không
những chỉ quan tâm đến giá bán, giá mua sản phẩm mà còn phải quan tâm rất
lớn đến những chi phí trong quá trình sử dụng chúng.
Cạnh tranh bằng tiêu chuẩn tiêu thụ sản phẩm và các dịch vụ sau bán hàng.
Trong thực tế, các DN sử dụng đồng thời cả 3 loại cạnh tranh trên. Tuy nhiên, tùy
vào từng hoàn cảnh cụ thẻ của DN trong thời kì nhất định có thể chú trọng hình thức
cạnh tranh khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu cuối cùng của các DN là lợi nhuận do vậy các DN
buộc phải cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh theo nghĩa cạnh tranh lành mạnh có tính chất:
Tránh nguy cơ bị phá sản trong cạnh tranh, do các DN phải dùng một phần lợi
nhuận của mình để phát triển đầu tư công nghệ, hiện đại hóa sản xuất.
Cạnh tranh tạo ra sự đồng hướng giữa mục tiêu lợi nhuận của DN và lợi ích của
người tiêu dùng cụ thể là hàng hóa chất lượng cao, giá thành giảm, phục vụ tố đồng
nghĩa với thu được nhiều lợi nhuận.
Các DN đều phải cố gắng giảm chi phí, nâng cao giá trị sử dụng cua sản phẩm,
hình thành tổ chức tiêu thụ vì đó là cơ sở cho sự tồn tại hoặc phá sản của DN và đồng
thời tạo ra nền sản xuất xã hội ngày càng cao.
Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của DN: trong nội bộ DN, các yếu tố cơ
bản ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của DN có thể được biểu thị bằng qui tắc
4M, là:
Men : con người, lực lượng lao động trong DN.
Methods : phương pháp quản trị, công nghệ, trình độ tổ chức quản lý và tổ
chức sản xuất của DN.
Machines : khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị của DN.
Materials : vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật
tư, nguyên nhiên vật liệu của DN.
Trong 4 yếu tố trên, con người được xem là yếu tố quan trọng nhất.
10
Các nhân tố bên ngoài DN: môi trường kinh doanh (tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ
lệ lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối doái, các CS tài khóa và tiền tệ...), Chính trị và pháp luật
(kinh tế luôn đi đôi với chính trị, nếu có được một môi trường chính trị và pháp luật ổn
định sẽ thúc đẩy các ngành, các DN yên tâm đầu tư và phát triển), khoa học công nghệ
(ngày nay đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, CN sinh học,
CN chế tạo... các ngành, các DN luôn phải đặt yếu tố này lên hàng đầu).
Các nhân tố bên trong DN: đó là các nhân tố về sản xuất như đối tượng lao đọng,
lực lượng lao động, cung cấp lao động.
Theo Michael Porter, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác
các năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có chi phí thấp và tính dị biệt
của sản phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, DN cần xác định được lợi thế
của mình mới có thể giành thắng lợi. Có hai nhóm lợi thế cạnh tranh:
Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh.
Các yếu tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động, thường được xem là nguồn lực
để tạo lợi thế cạnh tranh.
Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị
cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính
hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận
mức giá thậm chí cao hơn đối thủ.
Năng lực cạnh tranh ở cấp sản phẩm:
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó
so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường.
Có quan điểm cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và
nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để
tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác đem đến tiêu
thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian nhất định.
Tuy nhiên, các định nghĩa trên đều thiếu một yếu tố cơ bản mà người tiêu dùng
quan tâm nhất, đó là, tương quan giữa chất lượng và giá cả.
Với cách tiếp cận trên, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so
với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia
cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản phẩm
mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả năng
cạnh tranh cao hơn. Tính độc đáo: Đây là tiêu chí thể hiện rõ nhất năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Trong một xã hội tiêu dùng, khi vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại,
khi sự cạnh tranh về chất lượng và giá cả được đẩy tới mức ngang bằng nhau thì sự độc
đáo là yếu tố mà người tiêu dùng thường lựa chọn. Sự độc đáo có thể là kiểu dáng sản
phẩm. Sự độc đáo tạo ra một giá trị mới mà khách hàng muốn thông qua đó để thể hiện
giá trị của bản thân mình. Sự độc đáo về kiểu dáng ngày càng có tiềm năng để phát triển
hơn khi sản phẩm gắn với một không gian nhất định như nhà hàng, khách sạn, hội
trường, hộ gia đình...
Một sản phẩm hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, giá cả, tính năng, mẫu mã kiểu dáng,
tính độc đáo hay sự khác biệt của sản phẩm, thương hiệu...hơn hẳn so với các sản phẩm
hàng hóa cùng loại.
11