Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

thực trạng và giải pháp kích cầu đầu tư trong giai đoạn suy thoái kinh tế tại ngân hàng đầu tư và
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, trong giai đoạn nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề ổn định nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng và phát
triển toàn diện luôn là một trong những yêu cầu cấp thiết được đặt ra. Trong những
năm gần đây trước xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới chúng ta đã có rất nhiều
những cơ hội cho việc phát triển nền kinh tế song bên cạnh đó cũng có không ít khó
khăn mà một trong những khó khăn lớn nhất là phải đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển và hội nhập thành công, đồng thời cũng phải đảm bảo sự vững mạnh, tự chủ.
Hiện tại trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước
phát triển vượt bậc với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt ở mức khá cao. Có được
những thành tựu như vậy là do những chính sách tích cực và cụ thể của Đảng và
Nhà Nước ta trong mỗi giai đoạn cụ thể của quá trình phát triển kinh tế. Với mỗi sự
thay đổi của kinh tế thế giới chúng ta đều có những chính sách cụ thể phù hợp với
tình hình nhằm làm cho nền kinh tế ổn định phát triển.
Trong thực tế, chúng ta cũng cần nhận thức rõ ràng rằng không phải trong
mọi trường hợp chúng ta đều có thể thích ứng một cách tốt nhất, bởi lẽ chúng ta cần
hiểu rằng nền kinh tế Việt Nam là một phần của nền kinh tế thế giới. Một trong
những minh chứng rõ ràng là những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới tới nền kinh tế Việt Nam. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng của thi trường tài chính
Mỹ từ tháng 8 năm 2008 và đã nhanh chóng lan ra các nền kinh tế trên khắp thế
giới. Những ảnh hưởng này chúng ta có thể thấy rõ hàng ngày hàng giờ với việc
hàng chục nghìn lao động bị mất việc làm tại các khu công nghiệp, tốc độ tăng
trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm 2008 bị giảm mạnh, thị trường chứng khoán xuống
dốc…. Đến lúc này chúng ta nhận thấy rằng nền kinh tế hiện nay với những quy
luật chung, với quá trình tự điều tiết của nó không còn có tác dụng cho việc bình ổn
thị trường. Chính vì vậy trong lúc này vai trò của nhà nước một lần nữa được khẳng
định với những biện pháp cụ thể để phục hồi nền kinh tế đang bị suy thoái.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ đầu năm 2009 khi nhận thấy cần có những chính sách cho việc bình ổn
kinh tế chính phủ các nước đã nhanh chóng thông qua các gói kích cầu, tuy nhiên ở
nhiều nước vẫn chưa có được sự nhất trí trong việc sử dụng chúng vào đâu. Phần
đông các nước đều tìm mọi cách bảo hộ thị trường của mình, cố gắng giảm thiểu
hậu quả xã hội do hiện tượng sa thải nhân công hàng loạt gây ra.
Những gì mà chính phủ các nước, từ các quốc gia đã phát triển đến các quốc
gia đang phát triển, đang cố làm là tìm mọi cách đẩy mạnh lưu thông hàng hóa hòng
tăng sản xuất. Người ta gọi phương án này là kích cầu, tức là bơm ra một lượng tiền
để tăng sức mua. Chỉ riêng nước Mỹ gói kích cầu đã lên đến 800 tỷ đôla. Tổng các
gói kích cầu của một số nước trên thế giới vượt quá 2.000 tỷ đôla, và hiện vẫn đang
không ngừng gia tăng.
Hiện tại với Việt Nam chúng ta cũng đã thực hiện việc kích cầu đầu tư với
gói kích cầu 17.000 tỷ đồng với mục tiêu bù khoảng 40% lãi suất vay thương mại
nhằm huy động một lượng khá lớn vốn tín dụng với lãi suất thấp (khoảng 620.000
tỷ đồng với chu kỳ cho vay 1 năm) để hỗ trợ các doanh nghiệp, các tổ chức trong
nền kinh tế vay đầu tư phát triển nhằm duy trì sản xuất kinh doanh, giữ và tạo thêm
việc làm.
Là một sinh viên năm cuối của trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội thì
những vấn đề kinh tế luôn là mối quan tâm thường trực của bản thân tôi nói riêng,
của toàn thể các bạn sinh viên nói chung. Và hơn nữa với những kiến thức được nhà
trường trang bị thì tôi có thể xem xét các vấn đề này với nhiều góc độ để có thể có
được cái nhìn tổng thể về những vấn đề đang diễn ra.
Sau một thời gian tiếp thu những kiến thức trong nhà trường thì việc đem
những kiến thức đó vào đối chiếu với tình hình thực tế là rất quan trọng. Vì vậy mà
trong giai đoạn cuối của quá trình học tập tại trường thì việc đưa sinh viên đi thực
tập tại các đơn vị, tổ chức luôn được nhà trường coi trọng. Với bản thân tôi thì đây
là một cơ hội quý báu cho việc tiếp thu thêm kiến thức thực tế để hoàn thiện thêm
vốn hiểu biết của bản thân.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong quá trình thực tập tôi đã được Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam – Chi nhánh Lai Châu tiếp nhận, giúp đỡ trong suốt quá trình thực tập. Có
được cơ hội tiếp xúc với thực tế tại một trong những đơn vị hàng đầu trong hoạt
động tài chính tại Việt Nam tôi đã có thêm được những hiểu biết thực tế quý báu.
Với tình hình chung của nền kinh tế, với những hoạt động đang diễn ra tai đơn vị
thực tập, sau một quá trình thực tập tôi đã chọn đề tài:
“Thực trạng và giải pháp kích cầu đầu tư trong giai đoạn suy thoái kinh
tế tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Lai Châu”
làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Việc chọn đề tài này của tôi
xuất phát từ tình hình thực tế của kinh tế nước ta là hiện tại nền kinh tế chúng ta
đang gặp những khó khăn chung của kinh tế thế giới và chính phủ nước ta đang có
những biện pháp kích cầu đầu tư, ngăn chặn suy giảm kinh tế; thêm vào đó Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói chung, Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh
Lai Châu nói chung là một trong những đơn vị đầu mối thực hiện các chính sách về
kích cầu đầu tư này.
Hoàn thành được chuyên đề thực tập này, tôi xin chân thành cảm ơn:
ThS. Nguyễn Thị Thu Hà – Giảng viên khoa Kinh tế đầu tư – ĐH Kinh tế
quốc dân Hà Nội cùng toàn thể tập thể giảng viên Khoa kinh tế đầu tư.
Ban giám đốc cùng toàn thế cán bộ nhân viên Ngân hàng đầu tư và phát
triển chi nhánh tỉnh Lai Châu
Đã tận tình giúp đỡ trong quá trình thực tập cũng như trong quá trình hoàn
thành chuyên đề này. Tôi hi vọng rằng với đề tài này ngoài việc mang lại những
thông tin cập nhật, những hiểu biết về thực tế cho bản thân tôi thì nó cũng một phần
nào giúp cho quá trình thực hiện việc kích cầu đầu tư đạt được những kết quả như
mong muốn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Lai Châu, ngày 01 tháng 04 năm 2009
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC KÍCH CẦU ĐẦU TƯ VÀ
SỰ CẦN THIẾT PHẢI KÍCH CẦU ĐẦU TƯ TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trong việc nghiên cứu những vấn đề kinh tế thì những lý luận kinh tế liên
quan có vai trò quan trọng. Đây chính là tiền đề cho việc nghiên cứu được đúng
hướng và đạt được kết quả đề ra. Trong chuyên đề này cũng vây, những lý thuyết về
đầu tư và kích cầu đầu tư chính là cơ sở đầu tiên cho tôi tiến hành xây dựng chuyên
đề. Có thể nói rằng những lý thuyết đó chính là nền móng vững chắc giúp cho việc
xây dựng được thành công. Trong chương I này những vấn đề lý luận về kinh tế, về
kích cầu đầu tư sẽ được nêu ra để làm cơ sở cho việc xây dựng những chương tiếp
sau.
I. LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ
1. Khái niệm về đầu tư
1.1 Khái niệm chung
Hiện nay khái niệm đầu tư đang xuất hiện hàng ngày hàng giờ trong cuộc
sống hiện nay. Theo quan niệm của một số người thì việc bỏ ra những nguồn lực mà
họ có đem vào sử dụng cho việc kinh doanh, buôn bán… nhằm đem lai cho bản
thân những lợi ích sau này. Xét một cách cụ thể thì đó chũng là một hoạt động đầu
tư. Song nếu xem xét cụ thể về bản chất của những hoạt động này thì ta thấy rằng:
“Đầu tư theo nghĩa rộng có nghĩa là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai mà kết quả này thường phải lớn hơn các chi phí về các nguồn lực
đã bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản vật
chất khác hoặc sức lao động. Sự biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra
trên đây gọi là vốn đầu tư .”
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong các kết quả đạt được có thể là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, nguồn
nhân lực tăng thêm... những kết quả này nếu xét trên góc độ xã hội thì không chỉ
nhà đầu tư được lợi mà cả xã hội cũng có thể có những lợi ích nhất định.
Những kết quả của đầu tư đem lại là sự tăng thêm tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, của cải vật chất khác), tài sản trí tuệ (trình độ
văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật... của người dân). Các kết quả đã đạt được
của đầu tư đem lại góp phần tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
ở hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trên giác độ đầu tư thì đầu tư là những hoạt động sử
dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực
và trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của
các tài sản và nguồn lực sẵn có. Có thể thấy rằng hoạt động đầu tư là hoạt động tất
yếu và không thể thiếu trong xã hội nó đem lại cho nền kinh tế những động lực phát
triển mới và cùng với đó là cơ sở cho sự duy trì và phát triển đời sống xã hội.
1.2. Khái niệm đầu tư trên góc độ tài chính
Việc xem xét quá trình đầu tư trên góc độ tài chính là một trong những vấn
đề chủ yếu của quá trình đầu tư. Có thể khẳng định như vậy là vì trong hoạt động
đầu tư thì nguồn lực chủ yếu bỏ ra cho đầu tư chính là tiền bạc và các nguồn lực vật
chất khác. Và đây cũng chính là mối quan tâm lớn của các nhà đầu tư vì khi nhà đầu
tư bỏ vốn ra thì việc thu hồi vốn và có lãi là một trong những yêu cầu cần thiết nhất.
Có thể xem xét đầu tư tài chính như sau:
“ Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu trong hiện tại để chủ đầu tư
nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời trong tương lai”.
Trong định nghĩa này thì tất cả những nguồn lực nhà đầu tư bỏ ra xem xét
với góc độ là vốn, là tiền bạc bỏ ra. Nhà đầu tư quan tâm đến các dòng tiền mà mình
bỏ ra và các dòng tiền thu về. Xem xét như vậy thì sau một quá trình đầu tư nếu
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thành công thì nhà đầu tư có thể thu về dòng tiền lớn hơn dòng tiền mình đã bỏ ra,
sau quá trình đầu tư nhà đầu tư có thể tăng được quy mô tài sản hiện có.
Một trong những hoạt động mà được coi là ví dụ điển hình cho định nghĩa
trên, được các nhà đầu tư xem xét nhiều nhất trên góc độ tài chính là hoạt động đầu
tư trên thị trường chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Trong hoạt động này nhà
đầu tư tiến hành mua cổ phiều của các công ty và với kỳ vọng là sẽ thu về các lợi
ích kinh tế trong tương lai từ chênh lệch giá cổ phiếu, từ hưởng cổ tức chi trả của
các công ty.
Xét với thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay thì việc đầu tư trên thị
trường chứng khoán chủ yếu là với kỳ vọng thu được những nguồn lợi từ chênh
lệch giá cổ phiếu mua và cổ phiếu bán, chứ rất ít nhà đầu tư có thể đầu tư lâu dài
với một loại cổ phiếu để có thể hưởng cổ tức mà các công ty chi trả.
Như vậy với góc độ xem xét hoạt động đầu tư dưới góc độ tài chính thì các
dòng tiền chính là phản ánh chủ yếu lợi ích mang lại cho các nhà đầu tư, cho xã hội;
nhà đầu tư có thể thu được chính là lợi nhuận, xã hội thu được từ việc nhà nước thu
thuế với dự án và từ tiền lương người lao động thu được khi làm việc cho dự án đầu tư.
1.3. Khái niệm đầu tư dưới góc độ tiêu dùng
Ở góc độ này thì có thế thấy như sau:
“Đầu tư là hình thức hi sinh tiêu dùng trong hiện tại để thu về mức tiêu dùng
lớn hơn trong tương lai ”
Nếu xét cho đến cùng thì mục đích của hoạt động đầu tư là kỳ vọng về
những lợi ích lớn hơn mức đã bỏ ra được thu về trong tương lai; và định nghĩa về
đầu tư với góc độ tiêu dùng đã phản ánh phần lớn những mục đích đó của hoạt động
đầu tư. Chúng ta hi sinh những lợi ích của việc tiêu dùng hiện tại nhằm tại dựng,
tích lũy những nguồn lực cho quá trình đầu tư và bằng việc đàu tư và những lợi ích
nó mang lại thì nhà đầu tư cũng như xã hội có được những lợi ích trong tương lai
nhờ đó mà họ có thể có được mức tiêu dùng ở mức độ cao hơn.
Trong thực tế cuộc sống việc các cá nhân, tổ chức thực hiện việc tiết kiệm
tiến hành đầu tư hoặc cho vay đầu tư chính là một trong những ví dụ tiêu biểu của
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quá trình đầu tư khi xét trên góc độ tiêu dùng, bởi vì với hoạt động tiết kiệm này
người tiết kiệm đã hi sinh những nhu cầu tiêu dùng trong hiện tại với kỳ vọng thu
những lợi ích trong tương lai để có thể cải thiện mức tiêu dùng của mình ở một mức
cao hơn.
Như vậy với mỗi góc độ nghiên cứu về khái niệm đầu tư chúng ta đều có
những cái nhìn khác nhau xung quanh vấn đề này. Việc xem xét đầu tư với góc độ
nào còn phụ thuộc nhiều vào quan điểm của mỗi người và trong từng trường hợp cụ
thể. Chính vì vậy mà chúng ta cần xem với từng trường hợp cụ thể mà đứng trên
góc độ nào để xem xét, điều đó sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn đúng đắn và việc
ra quyết định được chính xác hơn.
2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư
Trong việc nghiên cứu hoạt động đầu tư thì người ta có nhiều tiêu chí để
phân loại hoạt động đầu tư và với mỗi tiêu chí thì chúng ta lại phân loại đầu tư ra
thành những dạng đầu tư khác nhau. Song trong bài nghiên cứu này tôi chỉ xin
được phân loại hoạt động đầu tư theo tiêu chí xem xét bản chất của việc đầu tư và
phân loại đầu tư theo ba dạng là: Đầu tư phát triển, Đầu tư tài chính và Đầu tư
thương mại.
Trong ba dạng của hoạt động đầu tư thì đầu tư phát triển là hoạt động chủ
yếu nhất và nó mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động đầu tư thông thường.
Chính vì vậy mà việc nghiên cứu các đặc điểm của đầu tư phát triển cũng đồng
nghĩa với việc nghiên cứu đặc điểm của đầu tư nói chung.
2.1. Đầu tư là hoạt động đòi hỏi huy động các nguồn lực rất lớn
Với mỗi hoạt động đầu tư chúng ta thấy rằng đây là lĩnh vực yêu cầu những
nguồn lực rất lớn, bởi vì hoạt động đầu tư phát triển nói chung hoạt động đầu tư nói
riêng đều diễn ra trên quy mô lớn, với đặc điểm như vậy thì việc đòi hỏi mức vốn,
vật tư và lao động ở quy mô lớn là một điều tất nhiên. Hơn thế nữa kết quả của mỗi
quá trình đầu tư thường là những lợi ích mà nó mang lại cho chủ đầu tư và xã hội,
nhằm mục tiêu tạo dựng những điều kiện tốt hơn cho phát triển kinh tế và nâng cao
đời sống, chính vì vậy mà nguồn lực cần thiết cho quá trình đầu tư xét trên phương
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
diện cá nhân cũng như xã hội thường có quy mô lớn, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị lâu
dài và kỹ lưỡng.
Thứ nhất với vốn và vật tư huy động cho đầu tư cần có sự chuẩn bị lâu dài và
có kế hoạch kỹ lưỡng. Trong nhiều trường hợp cụ thể thì mức vốn đầu tư có thể lớn
tới mức mà một cá nhân hay một tổ chức thậm chí là một chính phủ không thể đứng
ra tự mình có đủ lượng vốn cần thiết, chính vì vậy mà trong hoạt động đầu tư thì
quá trình huy động vốn cũng đóng một vai trò khá quan trọng. Ngoài ra, với quy mô
lớn như vậy trong đầu tư thì đòi hỏi mỗi nhà quản lý phải có kế hoạch và chiến lược
quản lý nguồn vốn hiệu quả:
- Thứ nhất quản lý nguồn vốn hợp lý, tránh thất thoát lãng phí trong đầu tư.
- Trong quá trình đầu tư nguồn vốn có nguy cơ bị khê đọng cao, chính vì vậy
phải có kế hoạch vận hành kết quả đầu tư sớm nhất tránh để vốn ứ đọng quá lâu.
- Có kế hoạch quản lý sử dụng và thu hồi vốn cụ thể, giảm tối đa các chi phí
về vốn đầu tư (lãi vay, chi phí quản lý vốn…).
Đây chính là những yêu cầu tối thiểu trong quá trình quản lý vốn đầu tư mà
đòi hỏi mỗi nhà đầu tư phải luôn chú ý. Ngoài những yếu tố về vốn, vật tư thì nguồn
nhân lực là yếu tố không thể thiếu, có thể thấy rằng chất lượng nguồn nhân lực là
yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến chất lượng và kết quả của quá trình đầu tư. Việc
chuẩn bị cho nguồn nhân lực tiến hành cho dự án là một quá trình lâu dài, từ khi
tuyển chọn, đào tạo đến khi sử dụng chiếm một thời gian khá lâu. Với nguồn nhân
lực cho dự án thì việc quản trị nhân lực chúng ta cần lưu ý những vấn đề sau:
- Có kế hoạch về tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cụ thể.
- Chiến lược sử dụng con người cần được xây dựng dựa trên đặc trưng công
việc và đặc điểm của nguồn lao động.
- Ngoài việc đào tạo ban đầu thì trong quá trình sử dụng chúng ta cần có kế
hoạch bồi dưỡng bổ sung kiến thức kỹ năng liên tục thường xuyên.
Như vậy tầm quan trọng của các nguồn lực cho dự án đầu tư mà chúng ta cấn
chú ý trong việc sử dụng các nguồn lực này một cách hiệu quả nhất.
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.2. Thời gian đầu tư kéo dài
Với hoạt động đầu tư thời kỳ đầu tư được tính từ khi đi vào thực hiện dự đến
khi hoàn thành và đi vào vận hành các kết quả đầu tư. Do đó nếu như với các dự án
đầu tư có liên quan đến việc xây dựng hay các dự án tiến hành tạo dựng các điều
kiện về cơ sở hạ tầng mới thì việc đầu tư thường kéo dài từ vài năm thậm chí đến
hàng chục năm.
Với những dự án đầu tư như thế thì việc sử dụng vốn đầu tư và quản lý hoạt
động đầu tư theo phân kỳ là rất cần thiết. Với thời kỳ đầu tư kéo dài thì chúng ta
nên phân việc đầu tư thành các thời kỳ nối tiếp nhau, mỗi thời kỳ cần có nguồn lực,
kế hoạch, mục tiêu cụ thể. Việc phân chia này giúp cho các công việc của dự án
được thực hiện một cách khoa học, dứt điểm và mang tính hiệu quả.
Ngoài ra việc phân kỳ dự án đầu tư còn tạo cho chúng ta điều kiện đưa các
hạng mục công trình đã hoàn thành đưa vào vận hành khai thác một phần hoặc toạn
bộ như thế vốn đầu tư bỏ ra ban đầu sẽ sớm được thu hồi, tránh khe đọng vốn và tạo
cho việc tái đầu tư trở lại được nhanh chóng hơn, đây cũng là một biện pháp để nhà
đầu tư khắc phục tình trạng thiếu vốn và giảm được mức vốn đầu tư cần thiết phải
huy động cho toàn bộ dự án.
Hiện nay, nếu xét với thực tế nước ta thì với những công trình lớn mang tầm
cỡ quốc gia chúng ta đã vận dụng khá tốt các biện pháp để nhằm thích ứng với đặc
điểm thời kỳ đầu tư kéo dài với các dự án đầu tư lớn. Ví dụ với công trình thủy điện
Sơn La là một trong những công trình trọng điểm quốc gia lớn của nước ta hiện
nay: Được khởi công vào ngày 2/12/2005 và theo kế hoạch thì dự án sẽ hoàn thành
vào năm 2015. Như vậy thời gian thực hiện dự án hơn 10 năm đã khiến cho việc
quản lý dự án gặp những khó khăn nhất định do thời gian đầu tư kéo dài mang lại:
thư nhất chúng ta mất hơn 1 năm để tiến hành cho việc chuẩn bị thực hiện xây
dựng(di dân, tái định cư với hơn 18.000 hộ dân) ngoài ra thì chi phí lãi vay là khá
lớn với khoảng 6.210 tỷ đồng tiền lãi vay…. Với công trình này ngoài các biện
pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, huy động tối đa các điều kiện cho dự án
được tiến hành thuận lợi chúng ta đã thực hiện phân chia giai đoạn đầu tư thành các
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thời kỳ cụ thể. Theo kế hoạch thì đến hết năm 2005, sẽ hoàn tất các hạng mục phụ
trợ để khởi công ngăn sông đợt 1, phát điện tổ máy đầu tiên vào năm 2012 và hoàn
thành kết thúc công trình vào năm 2015.
Như vậy thì các hạng mục đã hoàn thành của công trình đã được đưa vào vận
hành một cách sớm nhất từ đó tạo điều kiện cho việ thu hồi vốn được nhanh hơn.
2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Không chỉ thời kỳ đầu tư kéo dài mà thời gian vận hành các kết quả đầu tư
cũng rất lâu dài, hơn rất nhiều so với thời kỳ đầu tư, nó được tính từ thời gian hoàn
thành dự án và đưa công trình vào khai thác đến khi dông trình hết hạn sử dụng và
bị đào thải. Việc vận hành các kết quả đầu tư có thể tính đến đơn vị hàng chục năm.
Với những đặc điểm như vậy chúng ta thấy rằng trong suốt quá trình vận hành các
kết quả đầu tư chịu sự tác động của cả hai mặt, cả tích cực và tiêu cực, của nhiều
yếu tố tự nhiên, kinh tế chính trị xã hội… để thích ứng, trong công tác quản lý cần
chú ý những nội dung sau:
- Cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp vĩ mô và vi
mô về nhu cầu của thị trường về sản phẩm dự án trong tương lai, dự kiên khả năng
cung cấp hàng năm và của cả dòng đời dự án, tránh trường hợp dự án khi đã hoàn
thành khi đưa vào khai thác một thời gian thì không còn phù hợp gây sự lãng phí vô
cùng lớn.
- Quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào
sử dụng, hoạt động với công suất tốt đa để thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình.
- Chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm
nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ
những năm sau đó và kéo dài trong nhiều năm. Chính vì vậy việc tính toán chính
xác yếu tố độ trễ là quan trọng, nó giúp cho chúng ta có thể xây dựng được kế
hoạch vận hành và khai thác hiệu quả và hợp lý.
2.4. Các kết quả đầu tư có ảnh hưởng lớn và nó cũng chịu ảnh hưởng lớn của
các yếu tố kinh tế, xã hội
Với các dự án thì mức ảnh hưởng của nó có thể nói là khá sâu rộng đối với
Hoàng Hải Nam Lớp: KTĐT 47D
10