Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI MỞ ĐẦU
Khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam trong đó phần lớn bao gồm các
doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được coi là đóng vai trò quan trọng đối với
việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà Việt Nam đã đạt được trong thập
niên vừa qua. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần
khẳng định tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh
tế tư nhân trong các chiến lược phát triển của mình, đặc biệt là về phương diện
tạo công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo. Trong những năm vừa qua đã có
một loạt những cải cách mang lại những kết quả đáng khích lệ như Luật Doanh
nghiệp (năm 2000) và Nghị định Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (năm
2001), tạo một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
khu vực tư nhân.
Mặc dù môi trường hoạt động đã dần được cải thiện, các doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong
quá trình tăng trưởng. Các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được hưởng một sân
chơi bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước. Những hạn chế về khả năng tiếp
cận nguồn vốn tín dụng và công nghệ hiện đại vẫn là những rào cản làm chậm
lại tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới
thành lập đồng thời cũng thiếu công cụ quản lý hiện đại, khả năng tiếp cận thông
tin và các mối liên hệ với các thị trường xuất khẩu.
Có thể nói Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 và Luật
khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) mới có hiệu lực từ năm 1999 đã có
những đóng góp đáng kể cho việc thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, giải
phóng sức sản xuất, khơi dậy nhiều tiềm năng, phát triển hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập trong cả nước tăng lên
nhanh chóng, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế này đang giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế như
tạo thêm việc làm, thu hút vốn vào sản xuất, kinh doanh, tăng thêm thu nhập và
1
đa dạng hóa thu nhập dân cư, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền
kinh tế năng động và hiệu quả hơn, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn, chưa
tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Có tình trạng đó là do những tồn tại như
môi trường đầu tư chưa thông thoáng, thủ tục còn nhiều phiền hà, mức độ hỗ trợ
và ưu đãi đầu tư chưa thật hấp dẫn.
Vì vậy, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
nước ta trong thời gian tới, em chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải
pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay”. Đề tài gồm có các phần sau:
- Mục lục
- Lời mở đầu
- Phần 1: Lý luận chung
- Phần 2: Thực trạng đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Phần 3: Phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong
thời gian tới
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo
Em xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới TS. NGUYỄN BẠCH NGUYỆT
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này.
2
PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG
I. Đầu tư và đầu tư phát triển
1. Khái niệm
Xuất phát từ phạm vi tác dụng của các kết quả hoạt động đầu tư, chúng ta
có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất
định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, mục đích của việc đầu tư là thu được cái gì đó lớn hơn những gì
mà mình đã bỏ ra. Do vậy, nền kinh tế không xem những hoạt động như gửi tiền
tiết kiệm là hoạt động đầu tư vì nó không làm tăng của cải cho nền kinh tế mặc
dù người gửi vẫn có khoản thu lớn hơn so với số tiền gửi. Từ đó, người ta biết
đến một định nghĩa hẹp hơn về dầu tư hay chính là định nghĩa về đầu tư phát
triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực
vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu
trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng và đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thương xuyên gắn liền với sự hoạt động của
các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo
tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của các
thành viên trong xã hội.
Trước đây, theo quan niệm truyền thống, vốn đầu tư phát triển chỉ là
những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và
khôi phục tài sản cố định trong nền kinh tế. Như vây, về thực chất, vốn đầu tư
phát triển chỉ gồm những chi phí trực tiếp làm tăng tài sản cố định. Theo khái
3
niệm đầu tư phát triển vừa nêu ở trên, vốn đầu tư phát triển dược quan niệm là
những chi phí bỏ ra găn liền với việc làm tăng thêm tài sản cho toàn xã hội.
Nghĩa là, vốn đầu tư phát triển ngoài vai trò làm tăng tài sản cố định còn làm
tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân
cư, mặt bằng dân trí, bảo vệ môii trường sinh thái,... Nói cách khác, vốn đầu tư
phát triển có thể chia thành các nội dung cơ bản sau: vốn đầu tư xây dựng cơ
bản và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu động bổ sung; vốn đầu tư phát triển
khác. Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động đầu tư diễn ra một cách sôi nổi và thường xuyên từ những hoạt
động lớn đến những hoạt động trưởng chừng như bình thường: Nhà nước đầu tư
xây dựng cầu đường, một gia đình cho con đi học, một doanh nghiệp mua thêm
máy móc để sản xuất thêm sản phẩm...
Trong phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp, đề tài xin đi sâu vào phân tích
hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp nhỏ và vừa - một lực lượng đông đảo có
những đóng góp lớn vào công cuộc đầu tư phát triển của nền kinh tế.
2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư phát triển là một hoạt động mang tính quyết định đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, mỗi quốc gia cũng như
toàn thế giới. Sở dĩ như vậy là do đầu tư phát triển có những đặc điểm riêng có
khác biệt với những loại hình đầu tư khác.
Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, lại
nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Điều này cũng đồng nghĩa
với việc đã đem vốn đầu tư vào dự án này thì không thể sử dụng vốn đó cho một
dự án khác. Đặc điểm này của hoạt động đầu tư buộc các nhà đầu tư phải suy
nghĩ, cân nhắc rất kỹ trước khi lựa chon dự án và đưa ra quyết định đầu tư.
4
Thứ hai, thời gian tiến hành hoạt động đầu tư và kết quả của hoạt động
đầu tư phát huy tác dụng lâu dài. Để có được một tài sản cố định có thể phát huy
tác dụng một cách độc lập trong nền kinh tế thì cần một khoảng thời gian rất dài.
Ví dụ: để xây dựng một nhà máy sản xuất mới, chủ đầu tư phải trải qua nhiều
giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư với rất nhiều công việc.
Nhưng bù vào đó, nhà máy lại có thể hoạt động trong một thời gian dài đủ cho
nhà đầu tư thu hồi lại những chi phí đã bỏ ra, đồng thời có được một khoản lợi
nhuận hợp lý. Thêm vào đó là những thành quả của hoạt động đầu tư phát triển
có giá trị sử dụng lâu dài, thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc
nổi tiếng thế giới như Kim Tự Tháp ở Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rome, vạn lý
trường thành ở Trung Quốc... Điều này nói lên giá trị to lớn của các thành quả
đầu tư phát triển.
Do hoạt động đầu tư phát triển cần lượng vốn lớn và tồn tại lâu dài nên nó
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Có những yếu tố đã được nhận dạng, tính toán
từ trước, nhưng cũng có những yếu tố bất định xảy ra bất ngờ, không thể lường
trước được. Những yếu tố này tác động đến hoạt động đầu tư theo hai chiều
hướng: tích cực và tiêu cực. Thông thường những tác động tích cực thì ít mà tác
động tiêu cực thì nhiều, gây ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đầu tư. Từ
việc thời gian để tiến hành hoạt động đầu tư đến thời gian vận hành kết quả đầu
tư để thu hồi đủ vốn kéo dài làm cho công cuộc đầu tư chịu ảnh hưởng rất nhiều
của yếu tố tự nhiên, chính trị, xã hội, kinh tế... Hoạt động đầu tư còn chịu tác
động mạnh mẽ của yếu tố địa hình nơi công cuộc đầu tư được tiến hành bởi một
đặc điểm riêng có của hoạt động đầu tư là kết quả vận hành ngay tại nơi sản
xuất, xây dựng.
Với những đặc điểm nêu trên, hoạt động đầu tư yêu cầu chủ đầu tư cũng
như toàn bộ nền kinh tế phải quan tâm đến rất nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội, tự nhiên... để hoạt động đầu tư có thể diễn ra đúng như kế hoạch và mang
lại kết quả như mong muốn.
5
3. Vai trò của đầu tư
Như trên đã phân tích, đầu tư là hoạt động hy sinh nguồn lực ở hiện tại để
có thể thu lại những kết quả cao hơn trong tương lai. Thực tế thế giới và tình
hình Việt Nam từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung đến nền kinh tế thị trường đã
chứng minh nếu không có đầu tư phát triển thì không có sự tăng trưởng và phát
triển, nền kinh tế sẽ lâm vào thoái trào và đình trệ, đời sống người dân sẽ ngày
càng nghèo khó... Trong thời đại hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi
đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế và là chìa khóa của
sự tăng trưởng, hội nhập vào nền kinh tế chung của khu vực cũng như toàn thế
giới. Đầu tư phát triển có những vai trò vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền
kinh tế nói chung cũng như mỗi doanh nghiệp nói riêng.
3.1. Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền
kinh tế. Đầu tư là một yếu tố quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu
của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường
chiếm khoảng 24~28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới.
Đầu tư tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi,
đầu tư tăng lên làm cho tổng cầu tăng lên, kéo theo sản lượng cân bằng tăng lên
và giá cả của hàng hóa cũng tăng lên. Ngược lại với tổng cầu, đầu tư tác động
đến tổng cung trong dài hạn. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các
năng lực mới được sử dụng thì tổng cung tăng lên, kéo theo sản lượng tăng lên
và giá cả hàng hóa giảm. Theo tác động dây chuyền, giá cả giảm lại khuyến
khích tiêu dùng và kích thích đầu tư sản xuất hơn nữa. Cứ như vậy, đầu tư phát
triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
3.2. Đầu tư tác động đến sự ổn định về kinh tế
6
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không
đồng thời của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho sự tăng giảm của
hoạt động đầu tư cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn
định của nền kinh tế. Cụ thể, nếu đầu tư tăng lên, như phân tích ở trên làm cho
giá cả tăng lên gây ra tình trạng lạm phát. Lạm phát lại làm chõ đình trệ, đời
sống của người lao động gặp nhiều khó khăn, thâm hụt ngân sách, kinh tế châm
phát triển. Mặt khác, đầu tư tăng lên làm cho sản xuất phát triển, thu hút thêm
nhiều lao động, tăng thu nhập cho dân cư, giảm tệ nạn xã hội... Đây là yếu tố cơ
bản tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Nói như thế không có nghĩa là chúng
ta không nên tăng đầu tư phát triển vì nếu giảm đầu tư sẽ đưa đến nhiều hậu quả
to lớn hơn nữa. Vì vậy, trong hoạt động kinh tế vĩ mô, các nhà hoạch định chính
sách cần nhận thức đúng đắn về sự tác động hai mặt này để đưa ra những chính
sách hợp lý có thể phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực, duy trì
được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
3.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
Chúng ta sẽ xem xét sự tác động qua lại giữa vốn đầu tư và thu nhập của
nền kinh tế thông qua hai lý thuyết: lý thuyết của Keynes về đầu tư và lý thuyết
gia tốc đầu tư.
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư dều kéo theo sự gia tăng nhu
cầu bổ sung về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất. Do đó làm tăng việc
làm và nhu cầu về tư liệu sản xuất sẽ làm tăng thu nhập của nền kinh tế và đến
lượt nó làm tăng đầu tư mới. Quá trình này thể hiện thông qua số nhân đầu tư -
đại lượng thể hiện mối quan hệ tác động dây chuyền: tăng đầu tư làm tăng thu
nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới.
Số nhân đầu tư được xác định:
7