Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thực trạng đánh giá tình hình thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ 1996 đến nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những vấn đề
không chỉ thu hút sự quan tâm của các nước phát triển, mà đối với những
nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề này lại vô cùng cần thiết trong
chiến lược phát triển đất nước thời kỳ mới.
Trong thời đại hiện nay,nhất là trong hoàn cảnh các nước trong khu vực
Đông Nam (ASEAN) đang cạnh tranh nhau về môi trường đầu tư để nhằm
thu hút tối đa lượng vốn của bên ngoài,thì vấn đề đặt ra là: làm thế nào để
Việt Nam có thể cũng thu hút được một lượng vốn đủ dể phát triển kinh tế.
Muốn làm được điều này,chúng ta cần phải nghiên cứu kĩ đối tác,xem xét lại
môi trường của nước mình đã phù hợp chưa, để từ đó có những giải pháp thoả
đáng. Nhật Bản là trong những nước phát triển nhất ở châu á, là cường quốc
kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ.Mặc dù là một nước nghèo tài nguyên
thiên nhiên, thiếu nguyên liệu cho sản xuất nhưng bù lại Nhật Bản lại có công
nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến. Chính vì thế họ có xu hướng đầu
tư ra bên ngoài,đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á,để khai thác các
nguồn lực sẵn có của những nước này. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam là phải thu
hút được FDI của Nhật Bản.Thứ nữa là việc các dự án có vốn FDI của Nhật
Bản tại Việt Nam ( cả những dự án đã có giấy phép và những dự án đã đi vào
hoạt động ) đều diễn ra một cách chậm chạp và hiệu quả chưa cao. Vì thế
chúng ta cần phải có sự xem xét và đánh giá lại.
Xuất phát từ những vấn đề trên, cộng với sự hướng dẫn, giúp đỡ của cô giáo
Nguyễn Thanh Hà, em chọn đề tài này với mục đích đưa ra thêm một vài quan
điểm nhận xét của riêng mình, góp phần nào hoàn thiện dần các giải pháp nhằm
thu hút FDI của nước ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam.
Trong phạm vi khuôn khổ một bài luận em chỉ muốn phân tích tình hình
đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ từ năm 1996 đến
nay, đánh giá một cách đúng đắn, khách quan những điểm mạnh, những tồn
tại và đưa ra một vài giải pháp trong tương lai.
Nội dung của bài viết gồm ba chương:
Chương I: Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp.
Chương II: Thực trạng đánh giá tình hình thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt
Nam trong thời kỳ từ 1996 đến nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI của
Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ tới.
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG
VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức là hình thức hoạt động cao nhất
của các công ty khi thực hiện kinh doanh quốc tế.Về mặt sở hữu, đầu tư nước
ngoài là quyền sở hữu gián tiếp hoặc trực tiếp về tài sản ở nước khác. Và đầu
tư nước ngoài gắn liền với hoạt động của các công ty đa quốc gia.
Đầu tư nước ngoài là một hình thức chủ yếu của đầu tư nước ngoài và nó
chiếm đa số trong tổng số vốn đầu tư. Mục tiêu hoạt động của nó là mang tính
chất kinh doanh. Điểm khác biệt cơ bản của nó so với các loại hình đầu tư
khác là ở chỗ: người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp sử dụng, quản lý
và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cách hiểu của người Nhật là đầu tư vốn
vào hoạt động kinh doanh ở nước ngoài nhằm thu lợi nhuận.Hầu như tất cả số
tiền đầu tư vào các hoạt động kinh doanh ở địa phương phải được đem từ
nước đầu tư vào nước chủ nhà.
Bộ luật Kiểm soát ngoại hối và ngoại thương của Nhật Bản ban hành
tháng 10 – 1980 cũng qui định: đầu tư trực tiếp nước ngoài có nghĩa là “nắm
lấy bất kỳ cổ phiếu do một tổ chức pháp nhân theo luật pháp nước ngoài phát
hành, hay bất cứ một khoản tiền cho vay tới một tổ chức pháp nhân như vậy
nhằm thiết lập mối quan hệ lâu dài, hoặc bất kỳ một khoản trả vốn nào để
thành lập, mở rộng chi nhánh,nhà máy hay một doanh nghiệp ở nước ngoài
bởi một người bản xứ”.
Theo những định nghĩa này thì những gì FDI mang lại không chỉ bao
gồm việc chuyển giao vốn mà còn bao gồm việc chuyển giao trọn gói các
nguồn lực như: công nghệ và kỹ năng quản lý.
2
Đối với Việt Nam, tại điều 2, khoản 1Bộ luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam công bố sau khi sửa đổi ngày 23/11/1996 đầu tư trực tiếp nước ngoài
được hiểu là”việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của
luật này’’.Định nghĩa của thuật ngữ “đầu tư trực tiếp nước ngoài0’’chỉ có vậy
nhưng đằng sau nó là cả một quá trình phân tích lấu dài
2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Khi tham gia vào hoạt động FDI thì các chủ đầu tư nước ngoài phải
đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, điều này tuỳ thuộc vào qui
định của mỗi nước. Đối với Việt Nam, số vốn của các chủ đầu tư này nhỏ
nhất phải bằng 30% tổng số vốn pháp định, qui định này có sự khác biệt so
với một số nước khác vì họ qui định giới hạn mức vốn lớn nhất của các chủ
đầu tư nước ngoài đóng góp. Điều này cũng dễ hiểu vì các đối tác Việt Nam
chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lượng vốn ít, nên có qui định như
vậy thì các chủ đầu tư phía Việt Nam mới có điều kiện góp vốn.
- Quyền quản lý các xí nghiệp phụ thuộc vào số vốn góp của mỗi bên.
Nếu doanh nghiệp là doanh nghiệp 100% vốn của nước ngoài thì doanh
nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý.
Như vậy: từ những đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ta thấy nó
rất khác so với đầu tư gián tiếp và mục tiêu chính của đầu tư trực tiếp nước
ngoài là kinh doanh để thu lợi nhuận. Các qui luật kinh tế được các chủ đầu tư
vận dụng để làm sao giảm được tối đa về chi phí mà lại thu được lợi ích về
phía mình nhiều nhất. Vì vậy phía Việt Nam cũng cần phải có một đội ngũ
cán bộ có trình độ cao để có thể làm ăn được với các chủ đầu tư nước ngoài
làm sao hạn chế được những bất lợi về phía mình.
3. Các hình thức của đầu tư trực tiếp
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam thông qua ngày 29/12/1987. Từ khi được ban hành đến nay
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi:
- Lần thứ nhất ngày 30/6/1990
- Lần thứ hai ngày 23/12/1992
3