Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn Hải Ông Thi Tập
MIỄN PHÍ
Số trang
162
Kích thước
590.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1847

Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn Hải Ông Thi Tập

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

KIÊM THÊM

Hải đường

say nắng

NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA

HUẾ 2009

2

ĐỌC THƠ KIÊM THÊM

Nếu quả thực tôi là “đứa em gái của thằng bạn”

thì có lẽ tôi sẽ một tay bụm miệng cười – vì nghe nói

hắn “lanh chanh” (thơ Kiêm Thêm)- còn tay kia thì

ngoáy bút – vì nghe nói ‘hắn học giỏi”… Nhưng tôi

với tư cách một người đọc thơ thường tình, bỗng

dưng bị cuốn hút trong từ trường thơ Kiêm Thêm, mà

cũng vì “hắn” nên mới liều mình viết, khó khăn mà

viết, dù lần đầu tôi được đọc thơ Kiêm Thêm, theo lời

yêu cầu của chính nhà thơ mà Nguyên Sa đã có lần

gọi anh là “thi sĩ xứ Huế”:

“Hắn có đủ tứ chi đầu mình và tay chân

mắt môi và tóc cùng trí tuệ tuyệt vời

hắn nhận giải thưởng hạng nhất

về đủ thứ

Ở Huế thường có những thằng bạn với đứa em

gái như thế

Lanh chanh nhưng đẹp và học giỏi

Lạ thay hắn có quyền năng như Thượng đế

Sai bảo như thiên lôi

Bọn con trai thường thua luôn

(HĐSN)

3

Ngôn ngữ “kẻ cả”, “đàn anh”, “ông trời” giọng

Huế, lối Huế và cách Huế như rứa hầu như chế ngự

toàn thể tập “Hải đường say nắng” mà tác giả vừa

hình thành trong một thời gian rất ngắn (cuối đông

2008 đến tháng hai 2009), viết một mạch, một hơi

mấy trăm bài thơ và không khéo e sẽ viết hàng

nghìn…

Có lẽ không ai “nghịch” hơn Kiêm Thêm khi

“làm thơ” về một đề tài không thơ một chút nào với

nhiều tựa đề trúc trắc, chẳng hạn “Quyền năng của

đứa em gái thằng bạn”, nó cắt ngang mọi chuyện

mơ mộng về một gương mặt lãng mạn trong thơ

giữa trăm nghìn chuyện mưa nắng Huế mà thoạt tiên

bốn chữ “Hải đường say nắng” gợi nên.

Đã có “Đây thôn Vỹ Dạ” với “mặt chữ điền” bí

ẩn “lá trúc che ngang” cùng “gió theo lối gió mây

đường mây” đưa người đọc băn khoăn tìm kiếm một

thứ nhân diện nhìn không ra. Thi tứ vô cùng thoát ra

từ nét “mặt chữ điền” thay khuôn mặt trái xoan ước lệ

sáo cũ quả bất ngờ.

Kiêm Thêm bất ngờ hơn với một hình ảnh đời

thường, thường như cơm bữa - Huế với vô số bạn trai

có vô số đứa em gái lau chau. Trong đó lại có vô số

người bạn của anh thường là kẻ trong cuộc “đố lá” dò

4

la vườn Thúy. Chuyện đời xưa gói nhiều giấc “mộng

dưới hoa” xôn xao quan quan thư cưu, yểu điệu thục

nữ một thời Huế với trăm ngàn vu vơ.

Đời nay, ở xứ Mỹ, Los Angeles, Kiêm Thêm điển

hình hoá mọi vu vơ thành…một con nộm, một tuýp,

một thể loại người nộm với “đủ tứ chi đầu mình và

tay chân…mắt môi và tóc…”.

Nếu đọc kỹ và nếu ai không biết thì sẽ gạch sổ hai

câu này cho rằng tác giả viết dư đến lẩm cà lẩm cẩm.

Ai đời đã “tứ chi” rồi mà còn “đầu mình và tay chân”,

lại còn “mắt môi và tóc”, cái con nộm be bé ấy hoá ra

có 5 tay 5 chân 4 mắt 2 mình…chi chi đó!!!

Tôi cho người ấy chưa từng biết Huế…bằng Kiêm

Thêm với lối nói chữ dài ra, thưỡn ra, vừa “làm đày”

yêu bánh nậm, vừa đài cát thông thạo sấm trạng

Trình, mới nghe thì quái “dị” nhưng nghe lại thì “ngồ

ngộ” làm răng! Chỉ có Huế mới vừa “tứ chi” liền theo

với “tay chân”, mới “ nhận giải thưởng” mà “VỀ ĐỦ

THỨ”. Đủ thứ là thứ chi rứa? Theo thường lối ấy chỉ

có trong cách “noái chuyện” chứ không trong thi ca.

Mà chưa ai liều lĩnh tĩnh bơ như Kiêm Thêm khi

làm thơ với thứ ngôn ngữ tôi gọi là “trúc trắc” hầu

như chế ngự toàn tập thơ.

5

Trúc trắc ngược lối với thơ nếu không nói là phá

thơ, có nghĩa khổ độc, chõi âm điệu.

Ấy thế mà Kiêm Thêm đã tạo nên thơ nơi chính

khúc mắc ấy. Cái khúc mắc như khởi đầu của thơ,

như một nỗi giật mình chuyền sang người đọc. Cái

giật mình khi bắt gặp một hình ảnh đời thường quá

quen để là đối tượng của thơ đến nỗi thốt lên “Rứa

mà cũng thơ à?”

Ấy thế mà thơ!

Có nghĩa không nên dừng lại bên bờ một con chữ

nào để bắt lý, ngay cả “hắn”, “đứa em gái thằng bạn”.

Đừng hỏi “hắn là ai”. Cũng khoan đừng vội bắt bíu cả

“tứ chi đầu mình tay chân” mà quả quyết hắn bằng

xương bằng thịt 100%. Bởi vì liền sau đó Kiêm Thêm

đã cho “hắn” ngang hàng với “Thượng đế”. Mà cũng

đừng tưởng Thượng đế là…ông Trời cao vời vợi nhất,

Thượng đế của Kiêm Thêm là…“Thiên lôi”, nói theo

lối Huế mình…đùng đùng “chỉ mô đánh đó“ làm cho

“Bọn con trai thường thua luôn” trong đó có cả Kiêm

Thêm một thời “lẽo đẽo đi về chiêm bao”…

Bằng một hình tượng cũ rích rất Huế “đứa em gái

của thằng bạn” nơi Huế hay mưa…Kiêm Thêm đưa

vào một đột biến. Bỗng có cơn mưa lớn ở “Los” - Ở

“Los” mà cũng mưa! - ngay giữa lúc một đám mây

6

bay qua hồn người lái xe - bỗng có tiếng “ầm” của

hai chiếc xe đụng nhau.

Chiều kích không gian và thời gian xoay đột ngột,

từ một hiện thực hoài niệm chuyển sang một ngã ba

“tai nạn”, ngay đây - bây giờ, “thân thể nát nhừ”.

Thơ, trong chừng mực đột biến của ngôn ngữ,

cũng là một thứ tai nạn. Đụng độ với cái thường nhật

mãi hoài, thơ hầu như phải gây tai nạn, hay bị tai nạn

với cái thường nhật để “hoá kiếp” đời thường sang

một tầng trời mới, “ban phát thể tính” theo Heidegger

trên từng mảnh vô thường.

“Thân thể nát nhừ” là cơn đau có thật - ai bảo đó

là tình cờ cũng được – thơ chẳng phải là những cọng

lá tình cờ rơi từ hư vô như R. M. Rilke và Nietzsche

đã chiêm nghiệm hay sao?

Ở đây chức năng “thơ” của hiện tượng thương

tích xác thịt là một chấn thương giã biệt hiện thực,

trong nỗi bất lực với hiện thực. Từ đây “em hết sai

bảo anh được” và có lẽ anh “sẽ đi theo thằng bạn”

đến một nơi nào, lìa xa cõi trần.

Nếu không có cái chết của người bạn, nếu không

xuất hiện nơi mô đó bóng dáng ‘hắn” và nhất là tiếng

cười của “hắn”, kèm theo với sự cố tai nạn cuộc đụng

7

xe thân thể nát nhừ, thì Kiêm Thêm vẫn còn lẽo đẽo

trong sáo mòn cứ “thua luôn” một mạch.

Nhưng “Quyền năng của đưa em gái thằng bạn”

mới đó tưởng đùng đùng sấm chớp hoá ra bị giải giáp

lúc nào không hay.

“Hắn” không còn là “Thiên lôi” mà trở nên và chỉ

là tác phẩm của nhà thơ.

Đọc “Hải đường say nắng” ấn tượng mê hoặc

nhất vẫn là nỗi ngạc nhiên về sức mạnh siêu nhiên

của hồn thơ đến nỗi không thể không nhắc lại câu nói

của Nietzsche: “Không có thơ con người là không gì

cả. Với thơ con người là Thượng đế.”

Kiêm Thêm không bao giờ muốn làm Thượng đế,

cùng lắm anh là một “Bồ Tát hữu tình”có tài làm

sống lại và nhấc bỗng con nộm “tứ chi đầu mình…”,

dứt nó thoát khỏi sức hút trần thế để cùng bay vào vũ

trụ thi ca vô tận của tưởng tượng phiêu bồng.

Có thể nói Kiêm Thêm đã sáng tạo nên vũ trụ thi

ca của anh trên nhiều từng mây nhẹ hửng, còn nhẹ

hơn chính phạm trù tưởng tượng. Bởi thế, nói “vũ

trụ” là đã trọng lượng hoá đường bay của hồn thơ, đã

làm nặng gánh cái phiêu bồng trong con mắt của

người chưa đọc thơ của anh.

8

Bởi vì trên mỗi từng mây, được đặt lên những

điều rất nhỏ nhoi, ví như một xác ve, một chút nắng,

chút mưa, mảnh trăng, cọng rơm, chiếc lông ngỗng

của Mị Nương, tiếng khúc khích bên kia đại dương,

một âm Huế rớt giữa thinh không...cả con nộm trên

kia… Chúng cũng đã “thoát xác phàm” để chỉ còn

xôn xao thi tứ trong một không gian Huế khởi đi từ

nỗi nhớ. Có lẽ so với nội dung chất chứa trong thơ,

chỉ có nỗi nhớ là “nặng ký” nhất, đam mê nhất mà

chính nhà thơ thú thật không thoát nỗi.

Trong thơ Kiêm Thêm, cái “thật” nhất giữa những

phù phiếm vây quanh chính là cường độ thiết tha với

Huế. Hầu như TÌNH HUẾ bao trùm mọi chiều kích

ngôn ngữ, Huế là “Như Huế” mà cũng “Như em”

“Cắt từng miếng da non nhìn xem, tôi vẫn vậy

Chảy ròng ròng trong máu nước sông Hương”

Tôi chỉ thấy em và chỉ em thôi

Là Huế trong toàn thành phố cũ

Ôi thân yêu với trăm ngàn kỷ niệm

Đốt đuốc cả đời mới thấy em đây

Bỗng tôi thấy em cũng về lại đó…

Tôi lại cùng em đi thăm chợ Tết

9

Em nép mình sưởi ấm với vai tôi

Đôi mắt, nụ cười, môi hồng rực rỡ

Huế đây rồi nhờ có em tôi

(HĐSN, Chỉ có anh mới nhận ra em)

Khởi đầu của điểm khởi đầu “tiếng thơ” là âm ba

của một bóng dáng mơ hồ nào đó “Em vô lượng vô

biên cho anh đôi cánh mỏng” như một thứ “không

thanh” xướng lên làm hiển hiện cả trời đất cỏ cây,

tiếng vọng của nghìn năm hoá kiếp “Huế mà em”

cuộn mình trong cái kén nhớ, khi được bung ra thì đó

là “cầu vồng bảy sắc”, là “vạn hoa”..

“mọi sự đã có đổi khác

mây thì trong, gió hiu hiu lạnh

cây cỏ đổi màu

phía chân trời cầu vồng bảy sắc

còn em thì sao

mùa xuân sắp tới rồi

em đổi sắc

chào đón xuân mới

em mặc áo màu kính vạn hoa

đẹp tuyệt vời

như thế là em đã hơn cầu vồng bảy sắc

nhớ thuở xưa anh vẫn chơi kính vạn hoa đó

10

nhìn hoài, bỗng thấy em trong đó

em rực rỡ hơn các sắc màu

khiến anh mê đắm

thế ra em đã có từ ngàn năm trước”

(HĐSN, Người mặc áo màu kính vạn hoa, 42)

Nghìn trước đến nghìn sau, hoài niệm, tình yêu,

ước mơ, chán nản, xót xa, tuyệt vọng là những phiến

màu trong kính vạn hoa khởi động sức tưởng tượng

vút vào một điểm xa đang phóng chạy ngược lại với

mắt nhìn. Càng xa, xa ngái chừng nào thì tưởng

tượng càng chắp cánh bay, bay mãi cho đến khi bỗng

sắc màu biến thành hình hài đi đứng nói cười, buồn

bã tuyệt vọng, i hệt như người đời thường, và còn thật

hơn, hiển nhiên hơn đời thật:

“Phải rồi, Huế sống dậy, đi đứng lao xao

Kể cả tiếng guốc em đã vang trong quá khứ”

(HĐSN, Được nhìn lại Huế)

Thời gian trở thành không gian, quá khứ hiện tại

tương lai đi về trên con đò kết hoa “vạn thọ” xuôi

ngược trên nhánh sông có “căn nhà em… mà tôi qua

đó” trên những luồng máu qua tim.

“Lần này thì giấc mơ tuyệt vời biết bao…

Chiếc thuyền được kết hoa vạn thọ

11

Cùng những sắc màu khác…

Chiếc thuyền hoa đi trên dòng sông Hương…”

(HĐSN, Con đò có kết hoa vạn thọ)

Có nghĩa gì đâu khoảng cách không gian giữa bên

kia Los với bên này Huế? Chỉ cần nghe kể tiếng mưa

là mưa đã không dứt, chỉ cần đọc “em đi Hà nội” là

tôi đã viễn mơ:

“Khi tôi đến Hà Nội đang nắng

Phố xôn xao và gió thì hiền

Những cây phượng vàng ửng lên vành môi

Người con gái đi qua phố

Tôi lạc lõng tìm em”

(HĐSN, Viễn mộng Hà Nội)

Chỉ cần nghe em rời Huế là đã quặn lòng biệt ly:

“Em đi, Huế xa vắng tiếng reo cười

Ngay ngọn cỏ may cũng nhớ ánh mắt đó

Ngọn hải đường ủ rũ

Vì nhớ gót chân người đi”

(HĐSN, Tưởng nhớ)

“Ruột quặn thắt bởi nghĩ tới nơi đó

Đừng trách những cơn mưa của Huế

Đừng oán những con ve kêu khi mùa hạ về

Nếu Huế không buồn thì anh đâu làm thi sỹ…”

12

Sức sống trong thế giới tưởng tượng của Kiêm

Thêm, ngược với đinh ninh cho rằng tưởng tượng là

tấm kính mờ phản chiếu những thực thể hiện tiền,-

mãnh liệt và ào ạt, bất ngờ nơi chiều kích ngôn ngữ

phẳng trong nghĩa đánh mất không gian ba chiều

nhưng lại đa tầng theo nghĩa những đám mây đã thoát

sức hút trọng lượng trái đất để lớp lớp bay vào vô

hạn.

Tưởng như là khuôn sáo khi nói đến cái tình nhớ

Huế, nhiều khi đã trở nên một thứ truyền nhiễm trên

thi đàn về Huế dễ gây dị ứng phản cảm. Tưởng như

quá đỗi tầm thường khi Kiêm Thêm ca ngợi tình yêu,

hoài niệm Huế bằng lộng lẫy ngôn từ đế vương.

Tưởng như giả tạo khi Kiêm Thêm sử dụng lại

những khái niệm nặng nề từ chương bày tỏ yêu

thương, để ngần ngại như tôi đã ngần ngại ban đầu

khi mới ghé mắt đọc với tâm trạng sẵn sàng …chạy.

Nhưng không, thơ Kiêm Thêm níu chân người

đọc, bằng chính bước nhảy nhẹ hửng của anh ra khỏi

từ trường khuôn sáo ngôn ngữ, đồng thời cởi trói

người đọc ra khỏi mọi sức ép quán tính của định kiến,

chấp chặt vào khái niệm và thực thể hình hài: vừa vạn

tuế nữ hoàng đội vương miện xong thì em được

thưởng thức “rau khoai anh trồng”, và rước em

không phải võng lọng xênh xang mà “châu chấu,

chim chìa vôi, chiền chiện… có khi cả “chim ác là”,

13

“Ngay cả con giun dế sắp hàng đón em tới”. Không

ngựa xe sơn son thép vàng mà là “con đò kết hoa vạn

thọ” đưa em…và

“Con sáo hát khúc sang sông”.

Có khi buồn da diết mà vẫn nhớ “con kiến đen”

“Đã chết đêm qua

Em nhớ tẩm liệm nó với cánh mai khô”

(HĐSN, Mai mốt em không còn ở căn nhà

đó)

Có khi nghiêm trọng chết người như

“Em ngồi đó như Phật Bà”

rồi hỏng mất khi em lụ khụ

“Lại mặc áo vàng như Sư Cụ”

Và liền theo sau:

“Có ai đó tặng em hoa hồng tươi sung mãn

(Nên nhớ đây là cổng chùa nơi trang nghiêm, thọ

giới)”

(HĐSN, Nữ Thiền sư)

Hai dấu mở ngoặc và câu nhắc nhở chính là chìa

khoá mở tung xiềng xích mọi tuyệt đối hoá “EM”,

“Phật Bà”, “Sư cụ” để rồi:

14

“Anh đang theo Thầy Huyền Trang thỉnh kinh ở

Tây Trúc

Khi về ngang đó

Anh bỏ Thầy để dừng lại nghe em đọc thơ Thiền

và ngắm trăng...”

(HĐSN, Nữ Thiền sư)

Rất Kiêm Thêm nơi “bỏ Thầy”, dẹp hết, quên hết

mọi chuyện trên đời.

“Anh bây giờ trở lại người bình thường

Nỏ thần và gươm đã bị vô hiệu hoá

Ngay cả thành Cổ Loa

Cũng đã dẹp bỏ

Anh sẽ đi theo em

Về chơi Huế”

(HĐSN, Lông ngỗng và cuộc tìm kiếm kỳ

thú)

Bằng thủ pháp “làm rỗng” mọi “cái có” (das Haben,

l’ avoir, having) có thể khởi lên từ những khái niệm

ngôn ngữ thường nhật, Kiêm Thêm đã mang người đọc

vào chân trời thể tính thơ (Sein, être, Being), như

Nietzsche đã nhận ra: “Thế giới ảo là thế giới duy nhất”.

Ở đó luật chơi là cấm ta đồng hoá với những khái niệm

đóng khung, lầm tưởng ảo ảnh là thật, ở đó những định

kiến đạo đức dựa trên cảm tính ghen ghét không thể tồn

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!