Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

The grand design docx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
2
NỘI DUNG
1. BÍ ẨN CỦA TỒN TẠI
2. QUY TẮC CỦA ĐỊNH LUẬT
3. THỰC TẠI LÀ GÌ ?
4. CÁC LỊCH SỬ THAY THẾ
5. LÝ THUYẾT CHO MỌI THỨ
6. PHÉP CHỌN VŨ TRỤ CỦA CHÚNG TA
7. PHÉP MÀU HIỂN HIỆN
8. THIẾT KẾ VĨ ĐẠI
3
4
I
Mỗi chúng ta tồn tại, nhƣng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi.
Và trong chốc lát ấy khám phá chỉ một mẩu nhỏ của toàn bộ vũ trụ. Thế
nhƣng con ngƣời là một giống loài biết tò mò. Ta băn khoăn, ta tìm câu trả
lời. Sống trong một vũ trụ mênh mông cứ lần lƣợt tử tế rồi tàn nhẫn, ngắm
nhìn thƣợng giới thăm thẳm bên trên, ngƣời ta vẫn thƣờng luôn băn khoăn
với một tập hợp những câu hỏi kiểu nhƣ: Làm sao ta hiểu đƣợc thế giới ta
đang sống trong đó? Vũ trụ hành xử nhƣ thế nào? Đâu là bản chất của thực
tại? Tất cả đến từ đâu? Vũ trụ có cần một đấng sáng tạo? Phần lớn chúng ta
không bỏ tất cả thời gian bận tâm tới những câu hỏi này, nhƣng hầu hết
chúng ta đều bận tâm tới chúng vào một lúc nào đó trong khoảnh thời gian
của mình.
Theo truyền thống thì tuýp những câu hỏi này là dành cho triết học,
nhƣng triết học đã chết từ lâu. Nó không theo kịp sự phát triển của khoa học,
đặc biệt là vật lý. Các nhà khoa học đã trở thành những ngƣời mang ngọn
đuốc khám phá cho sứ mệnh đi tìm tri thức. Mục đích của quyển sách này là
đƣa ra những câu trả lời đƣợc đề xuất từ những khám phá và tiến triển trong
các lý thuyết gần đây. Chúng dẫn ta tới một bức tranh vũ trụ mới rất khác
biệt về vũ trụ và chỗ của chúng ta trong đó so với vũ trụ truyền thống mà
chúng ta vẫn biết, và bức tranh đó thậm chí còn khác biệt ngay với những gì
chúng ta đã vẽ nên chỉ một hai thập kỉ trƣớc đó. Tuy nhiên, những đƣờng
phác họa cho khái niệm mới này có thể lần ngƣợc lại từ trƣớc đó gần một
thế kỉ.
Theo khái niệm truyền thống về vũ trụ, mọi đối tƣợng chuyển động theo
những quỹ đạo xác định cụ thể và có một lịch sử xác định. Chúng ta có thể
xác định vị trí chính xác của chúng tại mỗi thời điểm. Dù cho lối miêu tả này
rất thành công cho các mục đích thƣờng ngày, vào thập niên 1920 ngƣời ta
phát hiện rằng nó không thể miêu tả chính xác các hành vi có vẻ kì quặc
quan sát đƣợc trên các thực thể ở phạm vi nguyên tử và dƣới nguyên tử.
Thay vào đó là sự cần thiết phải tiếp nhận một cơ cấu vật lý mới, gọi là vật lý
lƣợng tử. Các lý thuyết lƣợng tử hóa ra vừa chính xác một cách đáng ngạc
nhiên khi đƣợc dùng để dự đoán các hiện tƣợng ở phạm vi này, đồng thời
có thể tái tạo ra những dự đoán của các lý thuyết cổ điển khi áp dụng cho
thế giới vĩ mô trong cuộc sống thƣờng ngày. Dù vậy, lý thuyết lƣợng tử và cổ
điển lại dựa trên những khái niệm rất khác nhau về thực tại vật lý.
5
Thuyết lƣợng tử có thể đƣợc trình bày theo nhiều cách khác nhau,
nhƣng cách mô tả gần với trực giác nhất đã đƣợc đề ra bởi Richard (Dick)
Feynman, một nhân vật muôn màu muôn vẻ làm việc tại Viện Công nghệ
California (California Institution of Technology – Caltech - lnd) và chơi trống
vỗ tại một con ngõ nối ra phố. Theo Feynman, một hệ không chỉ có một lịch
sử mà là mọi lịch sử khả dĩ. Trong khi đi tìm các câu trả lời, chúng ta sẽ giải
thích chi tiết cách tiếp cận của Feynman, và áp dụng nó để khám phá ý
tƣởng về một vũ trụ mà bản thân nó không có một lịch sử duy nhất, hay
thậm chí cũng không có một sự tồn tại độc lập. Đó dƣờng nhƣ là một ý
tƣởng khác biệt từ căn bản, thậm chí đối với nhiều nhà vật lý. Quả thật,
giống nhƣ nhiều ý tƣởng trong khoa học ngày nay, nó có vẻ vi phạm trực
giác chung. Nhƣng trực giác chung lại dựa trên kinh nghiệm hằng ngày của
chúng ta, không dựa trên bản thân vũ trụ nhƣ nó đƣợc phô bày qua các kì
quan công nghệ có thể cho phép chúng ta nhìn sâu vào các nguyên tử hoặc
ngoảnh ngƣợc về vũ trụ thuở xa xƣa.
Trƣớc thời của vật lý hiện đại ngƣời ta vẫn có một niềm tin tổng quát là tất
cả kiến thức của thế giới có thể đạt đƣợc từ những quan sát trực tiếp, mọi vật
tồn tại theo cách chúng hiện ra, và đƣợc nhận thức thông qua các giác quan của
chúng ta. Tuy nhiên thành công ngoạn mục của vật lý hiện đại, dựa trên những
khái niệm giống nhƣ của Feynman vốn xung đột với kinh nghiệm hằng ngày, đã
cho thấy chuyện đó không thành vấn đề. Cái nhìn ngờ nghệch về thực tại từ đó
không thể tƣơng thích với vật lý hiện đại. Để đƣơng đầu với những nghịch lý ấy
chúng ta sẽ tiếp thu một lối tiếp cận gọi là thực tại phụ thuộc mô hình luận. Nó
dựa trên ý tƣởng rằng bộ não chúng ta diễn dịch tín hiệu vào từ các cơ quan
cảm nhận bằng cách tạo ra một mô hình của thế giới. Một khi mô hình đó giải
thích thành công các hiện tƣợng, chúng ta có xu hƣớng gán cho nó, cũng nhƣ
các yếu tố và khái niệm tạo nên nó, phẩm chất của thực tại hay còn gọi là chân
lý tuyệt đối. Nhƣng có những cách khác nhau để mô hình hóa cùng một tình
huống vật lý, mỗi cách áp dụng những yếu tố và khái niệm cơ bản khác nhau.
“…Và đây triết lý của tôi”
6
Nếu hai lý thuyết vật lý hay mô hình dự đoán chính xác cùng một sự kiện, không
ai có thể nói cái nào thực hơn cái nào; thay vào đó, chúng ta tự do chọn bất kì
mô hình nào là thuận tiện nhất.
Suốt lịch sử khoa học, chúng ta đã phát hiện ra một chuỗi các lý thuyết hay
mô hình càng về sau càng tốt hơn cái có trƣớc nó, từ Plato tới thuyết cổ điển
của Newton cho tới lý thuyết lƣợng tử hiện đại. Rất tự nhiên khi xuất hiện câu
hỏi: Liệu tiến trình này có cuối cùng chạm tới điểm kết thúc, một lý thuyết tối hậu
cho vũ trụ có thể bao gộp tất cả các lực và tiên đoán mọi quan sát chúng ta có
thể thấy, hay chúng ta sẽ mãi mãi tiếp tục tìm ra những lý thuyết tốt hơn, nhƣng
không bao giờ chạm tới đƣợc một lý thuyết không thể cải tiến thêm đƣợc nữa?
Chúng ta chƣa có câu trả lời nhất định cho câu hỏi này, nhƣng hiện giờ ta đang
có một ứng viên cho lý thuyết tối thƣợng về mọi thứ, nếu có, gọi là thuyết M.
Thuyết M là mô hình duy nhất có tất cả các đặc tính mà chúng ta nghĩ lý thuyết
cuối cùng phải có, và nó sẽ là lý thuyết mà phần lớn thảo luận sau này của
chúng ta sẽ dựa trên nó.
Thuyết M không phải là lý thuyết theo lối nghĩ thông thƣờng. Nó là cả một
gia đình các lý thuyết khác nhau, mỗi cái là một cách mô tả tốt cho riêng những
quan sát trong một phạm vi các tình huống vật lý. Nó từa tựa nhƣ bản đồ. Nhƣ
vẫn thƣờng biết, ngƣời ta không thể vẽ toàn bộ bề mật trái đất trên một bản đồ
đơn lẻ. Phép chiếu Mercator thông dụng dùng cho các bản đồ thế giới luôn khiến
các khu vực phình rộng dần ra về phía bắc và nam mà lại không thể che phủ cả
cực Bắc cũng nhƣ cực Nam. Để vẽ đƣợc trọn vẹn trái đất, ngƣời ta phải dùng
một bộ các bản đồ. Mỗi cái che phủ một khu vực có giới hạn. Khi hai bản đồ
chồng lấn lên nhau, chúng sẽ chỉ tới cùng một khu vực. Thuyết M cũng tƣơng
tự. Các lý thuyết khác nhau trong gia đình thuyết M có thể trông rất khác nhau,
nhƣng chúng đều có thể coi nhƣ những khía cạnh của một lý thuyết cơ sở. Tất
cả chúng đều là các phiên bản của thuyết M và chỉ áp dụng đƣợc trong một số
phạm vi có giới hạn – ví dụ, khi các đại lƣợng cụ thể giống nhƣ năng lƣợng vẫn
còn bé. Giống nhƣ những bản đồ lấn lên nhau trong phép chiếu Mercator, khi
phạm vi của các phiên bản khác nhau này chồng lấn, chúng sẽ dự đoán cùng
một hiện tƣợng. Nhƣng cũng nhƣ việc không có bản đồ phẳng nào đủ tốt để đại
diện cho toàn bộ bề mặt trái đất, không có một lý thuyết đơn lẻ nào có thể là đại
diện tốt cho mọi quan sát trong mọi tình huống.
7
Chúng ta sẽ mô tả làm cách nào thuyết M có thể sẽ đƣa ra câu trả lời cho
tạo hóa. Theo thuyết M, vũ trụ của chúng ta không phải là vũ trụ duy nhất.
Ngƣợc lại, thuyết M dự đoán vô vàn các vũ trụ đƣợc tạo ra từ hƣ không. Sự kiến
tạo của chúng không đòi hỏi sự can thiệp của một đấng siêu nhiên hay còn gọi là
Chúa. Thay vào đó, vô vàn các vũ trụ này ló dạng một cách tự nhiên từ các định
luật vật lý. Chúng là các dự đoán của khoa học. Mỗi vũ trụ đó có nhiều lịch sử
khả dĩ và nhiều trạng thái có thể có vào những thời điểm về sau, ví dụ nhƣ vào
những lúc nhƣ hiện tại, rất lâu sau sự bắt đầu của chúng. Phần lớn những trạng
thái này là hoàn toàn khác biệt với vũ trụ chúng ta quan sát đƣợc và hoàn toàn
không thích hợp cho bất kì dạng sống nào. Chỉ một số rất ít cho phép những
sinh vật nhƣ chúng ta tồn tại. Nên chính sự hiện diện của chúng ta đã chọn ra từ
mênh mông trong số này này chỉ những vũ trụ tƣơng thích với sự tồn tại của
chúng ta. Mặc dù chúng ta bé mọn và không đáng kể so với tầm vóc vũ trụ, điều
này khiến ta thấy mình trong vai chúa tể của tạo hóa.
Để hiểu đƣợc vũ trụ ớ mức độ sâu sắc nhất, chúng ta không chỉ cần biết
cách mà nó hành xử, mà còn phải vì sao nó hành xử.
Vì sao có thứ gì đó hơn là hư không?
Vì sao chúng ta tồn tại?
Tại sao là bộ các định luật này mà không phải một tập hợp nào khác?
Đây là Câu hỏi Tối Hậu của Sự Sống, Vũ Trụ và của Mọi thứ. Chúng ta sẽ
nỗ lực trả lời những câu hỏi đó trong quyển sách này. Câu trả lời của chúng ta
sẽ không giống nhƣ trong “Cẩm nang cho người quá giang tới Ngân Hà”, đơn
giản là “42”.
Bản đồ thế giới Thực tế có thể đòi hỏi một chuỗi các thuyết chồng lấn lên
nhau để đại diện cho vũ trụ, cũng nhƣ ta cần các bản đồ gối chồng lên nhau
để đại diện cho trái đất
8
9
II
Skoll chú sói sống trong rừng Woe
Cứ bay ra là lại dọa chị Hằng
Mặt Trời kia sao cứ mãi trốn chạy
Sói Hati dòng dõi của Hridvinir
Trong thần thoại Viking, Skoll và Hati rƣợt đuổi mặt trăng và mặt trời.
Khi hai con sói chộp đƣợc một trong hai, thiên thực sẽ xuất hiện. Khi điều đó
xảy ra, con ngƣời trên mặt đất lại nháo nhào đi giải cứu mặt trăng, mặt trời
bằng cách gây ra càng nhiều tiếng động càng tốt nhằm dọa bọn sói. Cũng có
những thần thoại tƣơng tự vậy trong các nền văn hóa khác. Nhƣng sau một
thời gian ngƣời ta phải nhận ra là mặt trời hay mặt trăng rồi cũng ló dạng
khỏi thiên thực bất chấp việc họ có chạy lòng vòng vừa la hét vừa gõ vào đồ
vật hay không. Thêm một thời gian nữa ngƣời ta nhận ra là thiên thực không
xảy ra ngẫu nhiên: chúng xảy ra theo những kiểu mẫu thƣờng xuyên lặp lại
chính chúng. Trình tự này dễ thấy nhất đối với mặt trăng và đã cho phép
ngƣời Babylon cổ đại dự đoán khá chính xác các lần nguyệt thực dù họ
không nhận ra rằng đó là do trái đất đã ngăn cản ánh sáng từ mặt trời. Nhật
thực vốn khó dự đoán hơn nhiều bởi vì nó chỉ có thể thấy đƣợc trong một vệt
hẹp rộng khoảng 30 dặm trên trái đất. Tuy nhiên, một khi đã nắm bắt đƣợc,
các kiểu mẫu ấy chứng tỏ rằng thiên thực chẳng phải dựa trên những cơn
hứng tùy tiện của các đấng siêu nhiên, mà thực ra đều bị chi phối bởi các
định luật.
10
Mặc cho những thành công trong dự đoán chuyển động của các thiên
thể, phần lớn sự kiện trong tự nhiên trông không thề đoán trƣớc đối với tổ
tiên của chúng ta. Núi lửa, động đất, bão tố, dịch hại và cả cái móng chân
mọc vẹo đều có vẻ nhƣ xảy ra không có lý do rõ ràng hay không theo quy
cách nào. Vào thời cổ đại thật là hiển nhiên khi đổ cho một phe phái những
thần thể ma mãnh hay quái ác là nguyên nhân cho những vận động bạo lực
của tự nhiên. Tai họa thƣờng đƣợc giáng xuống nhƣ là dấu hiệu cho thấy ai
đó đã xúc phạm các vị thần. Ví dụ, vào khoảng năm 5600 TCN ngọn núi lửa
Mazama ở Oregon bùng nổ, mƣa đất đá và tro bụi cháy rực hàng năm trời,
và sau nhiều năm mƣa rơi nƣớc dâng đầy miệng hố mà ngày nay gọi là Hồ
Lõm. Ngƣời da đỏ Klamath ở vùng Oregon có một truyền thuyết khá ăn khớp
với các chi tiết địa kiến tạo của sự kiện nhƣng họ cho thêm một chút kịch
tính bằng cách mô tả một con ngƣời nhƣ nguồn căn của thảm họa này.
Năng lực tội lỗi của con ngƣời thật lớn đến nỗi họ luôn luôn tìm ra cách nào
đó để kết tội mình. Theo nhƣ truyền thuyết, Llao, tù trƣởng của Âm Giới phải
lòng cô con gái xinh đẹp của vị tù trƣởng Klamath. Cô khƣớc từ ông ta, và
để trả thù Llao tìm cách hủy diệt Klamath trong lửa. May mắn thay, theo
truyền thuyết, Skell, tù trƣởng của Thƣợng Giới đã rủ lòng thƣơng con ngƣời
và giao chiến với địch thủ âm giới của ông. Tới cuối cùng Llao, trọng thƣơng,
rút về bên trong ngọn Mazana, để lại một cái lỗ khổng lồ, chính là hố lõm
chứa đầy nƣớc sau này.
Thiên thực Ngƣời cổ đại chẳng biết đƣợc điều thật sự gây ra thiên
thực, nhƣng họ hẳn đã phải chú ý tới quy cách xảy ra của chúng.
11
Sự mông muội đối với các cách thức của tự nhiên dẫn những ngƣời cổ
đại tới việc chế tác ra những vị thần làm chúa tể tất cả hay từng khía cạnh
đời sống con ngƣời. Có những vị thần của tình yêu và chiến tranh; của mặt
trời, mặt trăng, và của bầu trời; thần của đại dƣơng và sông suối; thần của
mƣa và sấm chớp; và cả động đất hay núi lửa. Khi các thấy hài lòng, loài
ngƣời đƣợc đối đãi bằng thời tiết tốt lành, hòa bình và tránh đƣợc thảm họa
thiên nhiên hay bệnh tật. Khi các thần thấy mất lòng, họ giáng xuống nào
hạn hán, nào chiến tranh, dịch bệnh và chết chóc. Chính vì liên hệ giữa
nguyên nhân và hậu quả là vô hình trong mắt họ, những vị thần có vẻ bất
khả thấu hiểu, và con ngƣời lệ thuộc sự nhân từ của họ. Tuy nhiên kể từ
Thales của Miletus (khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN) gần 2600 năm về
trƣớc, mọi thứ bắt đầu thay đổi. Tƣ tƣởng tin rằng tự nhiên tuân theo những
nguyên tắc phi mâu thuẫn vốn có thể giải mã đƣợc đã nổi lên. Và rồi bắt đầu
cho một quá trình lâu dài nhằm thay thế cho niềm tin vào sự cai trị của các vị
thần bằng khái niệm về một vũ trụ chi phối bởi các định luật tự nhiên, và
đƣợc tạo ra theo một bản thảo mà ngày nào đó ta có thể học đƣợc cách đọc
nó.
Xét trên chiều dài lịch sử nhân loại, chất vấn khoa học là một nỗ lực còn
rất mới. Giống loài của chúng ta, Người hiểu biết (Homo sapiens), bắt nguồn
từ vùng Châu phi cận Shahara vào khoảng năm 200,000 TCN. Ngôn ngữ
viết chỉ xuất hiện từ năm 7000 TCN, là sản phẩm của những cộng đồng quây
quần quanh các mùa vụ ngũ cốc. (Một số trong các bản viết cổ nhất liên
quan tới khẩu phần bia hằng ngày cho mỗi công dân.) Những ghi chép sớm
nhất từ nền văn minh vĩ đại của Hy Lạp cổ đại có từ thế kỉ thứ chín TCN,
nhƣng đỉnh cao của nền văn minh đó, “giai đoạn cổ điển”, phải đến nhiều
trăm năm sau đó, bắt đầu trƣớc năm 500 TCN một chút. Theo Aristotle (384
TCN – 322 TCN), chính vào lúc đó Thales đã lần đầu tiên phát triển tƣ tƣởng
về một thế giới mà ta có thể hiểu đƣợc, rằng những việc phức tạp xảy ra
xung quanh ta có thể gói gọn lại thành những nguyên lý đơn giản hơn và
đƣợc giải thích mà không cần viện tới các giải thích mang tính huyền bí hay
thần thánh.
Thales đƣợc tin là đã lần đầu tiên dự đoán đúng hiện tƣợng nhật thực
vào năm 585 TCN dù cho sự chính xác của dự đoán đó cỏ vẻ nhƣ chỉ là một
cú ăn may. Ông là một nhân vật ẩn khuất không để lại ghi chép nào của
mình. Quê hƣơng của Thales là một trong những trung tâm trí tuệ của vùng
đất Ionia, định cƣ bởi những ngƣời Hy Lạp và đã vƣơn sức ảnh hƣởng của
mình từ Thổ Nhĩ Kỳ tới tận nƣớc Ý. Khoa học Ionia là một nỗ lực nổi bật bởi
niềm hứng thú trong việc lột tả những định luật cơ sở để giải thích các hiện
tƣợng tự nhiên, một cột mốc kì vĩ trong lịch sử tƣ tƣởng nhân loại. Hƣớng
tiếp cận của họ đầy lý lẽ và trong nhiều trƣờng hợp dẫn tới những kết luận
tƣơng tự một cách đáng ngạc nhiên so với các phƣơng thức tiên tiến hơn
của chúng ta ngày nay mà chúng ta tin vào. Nó đã đại diện cho một khởi đầu
12
lớn lao. Nhƣng qua hàng thế kỉ, phần nhiều khoa học Ionia đã bị lãng quên –
chỉ loay hoay đƣợc tái khám phá hoặc là tái sáng tạo, lắm lúc hơn một lần.
Theo truyền thuyết, trình bày toán học đầu tiên chúng ta ngày nay có thể
gọi là một định luật của tự nhiên đƣợc lần ngƣợc thời gian tới thời của một
ngƣời Ionia tên là Pythagoras (khoảng 580 TCN – khoảng 490 TCN), nổi
tiếng với định lý mang tên ông: bình phƣơng cạnh huyền (cạnh dài nhất) của
một tam giác vuông bằng tổng các bình phƣơng của hai cạnh còn lại.
Pythagoras còn đƣợc cho là đã phát hiện ra quan hệ số học giữa chiều dài
dây trong các nhạc cụ với các tổ hợp họa âm của âm thanh. Theo ngôn ngữ
ngày nay ta sẽ diễn tả quan hệ đó bằng phát biểu là tần số – số dao động
trong một giây – của một dây đang rung động dƣới áp lực cố định thì tỉ lệ
nghịch với chiều dài của dây. Từ góc nhìn thực tế, điều này giải thích tại sao
đàn guitar bass phải có dây dài hơn đàn guitar thƣờng. Pythagoras không
hẳn nhƣ đã thực sự khám phá ra điều này – ông cũng không phát hiện ra
định lý mang tên ông – nhƣng có bằng chứng là một vài quan hệ giữa dây và
âm vực đã đƣợc biết đến trong thời của ông. Nếu vậy, ngƣời ta có thể gọi
công thức toán học đơn giản đó là ví dụ đầu tiên của thứ mà chúng ta bây
giờ gọi là vật lý lý thuyết.
Tách biệt với định lý của Pythagoras về các dây dao động, các định luật
vật lý duy nhất đƣợc biết đến chính xác vào thời cổ đại là ba định luật đƣợc
chi tiết hóa bởi Archimedes (khoảng 287 TCN – khoảng 212 TCN), đích
thực là nhà vật lý nhất đáng kính vào thời xƣa. Theo thuật ngữ ngày nay,
định luật về đòn bẩy giải thích cho việc các lực nhỏ có thể nâng các vật có
trọng lƣợng lớn bởi vì đòn bẩy khuếch đại một lực dựa trên tỉ số giữa các
Ionia Các học giả ở Ionia nằm trong số những ngƣời đầu tiên đã giải thích các
hiện tƣợng tự nhiên bằng các định luật tự nhiên thay vì huyền thoại hay thần lý.
13
khoảng cách tính từ điểm tựa của đòn bẩy. Định luật về sự nổi phát biểu
rằng một vật nhúng vào một chất lỏng sẽ chịu một lực hƣớng lên cân bằng
với trọng lực của khối chất lỏng bị chiếm chỗ. Và định luật phản xạ xác nhận
rằng góc giữa chùm sáng tới và gƣơng bằng với góc giữa gƣơng và chùm
phản xạ. Nhƣng Archimedes đã không gọi chúng là các định luật, cũng
không giải thích chúng dựa trên quan sát và đo đạc. Thay vào đó ông coi
chúng nhƣ các định lý thuần toán học, trong một hệ thống mang tính tiên đề
giống nhƣ hệ thống mà Euclid đã tạo ra cho hình học.
Trong khi ảnh hƣởng của Ionia lan tỏa, lại xuất hiện những cá nhân
khác thấy rằng vũ trụ sở hữu một trật tự nội tại, một trật tự có thể hiểu đƣợc
thông qua quan sát và lý luận. Anaximander (khoảng 610 TCN – khoảng 546
TCN), một ngƣời bạn và cũng có thể là học trò của Thales, lập luận rằng vì
những đứa trẻ sơ sinh là bất lực, nếu con ngƣời đầu tiên bằng cách nào đó
xuất hiện trên trái đất nhƣ là một đứa trẻ sơ sinh, nó phải không thể tồn tại
đƣợc. Với ý tƣởng có thể là sự mơ hồ đầu tiên của con ngƣời về sự tiến
hóa, Anaximander lập luận, con ngƣời vì vậy phải tiến hóa từ những loài
động vật khác có con non rắn rỏi hơn. Ở Sicily, Empedocles (khoảng 490
TCN – khoảng 430 TCN) đã quan sát công dụng của một dụng cụ gọi là
clepsydra. Đôi khi dùng nhƣ vật múc, nó gồm một khối cầu với một chiếc cổ
loe rộng và một lỗ dƣới đáy cầu. Khi nhấn chìm trong nƣớc nó sẽ đầy, và
nếu nhƣ chiếc cổ loe đƣợc bít lại, món đồ này có thể đƣợc nhấc ra mà
không làm nƣớc rơi khỏi cái lỗ. Empedocles chú ý rằng khi ta bít chiếc cổ lại
trƣớc khi nhúng chìm, chiếc clepsydra sẽ không thể đầy đƣợc. Ông lập luận
rằng điều gì đó vô hình phải ngăn không cho nƣớc chui vào khối cầu qua cái
lỗ – Empedocles đã phát hiện ra thành tố vật chất mà chúng ta gọi là không
khí.
Cùng khoảng thời gian đó, ở một vùng lãnh địa Ionia ở phía bắc Hy Lạp,
Democritus (khoảng 460 TCN – khoảng 370 TCN) cũng đang suy tƣ điều gì
sẽ xảy ra khi ta bẻ hay cắt một vật thành nhiều mảnh. Ông lập luận rằng bạn
phải không thể tiếp tục quá trình này vô hạn. Thay vào đó, ông giả thuyết
rằng mọi vật, kể cả các vật sống, đƣợc tạo nên từ các hạt cơ sở không thể bị
cắt hay bẻ thành nhiều mảnh đƣợc. Ông đặt tên cho các hạt tận cùng này là
atoms (nguyên tử), từ tính từ Hy Lạp nghĩa là “không cắt đƣợc nữa”.
Democritus tin rằng mọi hiện tƣợng vật chất đều là sản phẩm của sự va
chạm của các nguyên tử. Quan điểm của ông, tạm gọi thuyết nguyên tử, cho
rằng mọi hạt di chuyển chung quanh trong không gian, và, trừ phi có xáo
động, sẽ di chuyển thẳng tiến mãi mãi. Ngày nay ý tƣởng đó đƣợc gọi là
định luật quán tính. Ý tƣởng cách mạng cho rằng chúng ta chì là những cƣ
dân bình thƣờng của vũ trụ, không phải những thực thể đặc biệt tách biệt tồn
tại ở trung tâm vũ trụ, đã đạt đƣợc nhờ Aristarchus (khoảng 310 TCN –
khoảng 230 TCN), một trong số những nhà khoa học Ionia cuối cùng. Chỉ
một trong số những tính toán của ông tồn tại, một phân tích hình học phức
tạp từ những quan sát thực tế kĩ lƣỡng ông thu đƣợc từ kích thƣớc bóng của