Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thẩm định các dự án tín dụng có kì hạn cho các Khu công nghiệp tại các ngân hàng ở docx
MIỄN PHÍ
Số trang
94
Kích thước
482.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1504

Thẩm định các dự án tín dụng có kì hạn cho các Khu công nghiệp tại các ngân hàng ở docx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Lời mở đầu

Thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế, nước ta đã bước

đầu đạt được những thành tựu to lớn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định,

tốc độ lạm phát được kiểm soát, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.Tuy

nhiên do xuất phát điểm của chúng ta không cao, nền sản xuất ở mức độ thấp, công

nghệ kỹ thuật còn lạc hậu. Mặt khác do đất nước ta trải qua thời kỳ chiến tranh lâu

dài, đất nước thống nhất chưa được bao lâu.Trong điều kiện hiện nay, khi mà xu thế

hội nhập và hợp tác trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế ngày càng trở nên rõ

ràng và cần thiết hơn bao giờ hết. Đất nước chúng ta cũng không thể tránh khỏi

những quy luật tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển của xã hội loài người.

Nền kinh tế của chúng ta cũng phải trải qua những giai đoạn mà các nước phát triển

đã trải qua.ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội này nhiệm vụ đặt ra đối với

chúng ta là cực kỳ khó khăn, chúng ta vừa phải phát triển nền kinh tế tư bản chủ

nghĩa nhưng quan hệ sản xuất của chúng ta là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn quá độ này chúng ta phải đầu tư nhiều để phát triển cơ sở hạ tầng

của nền kinh tế, tạo đà cho sự phát triển vững chắc sau này.Vì thế vấn đề đặt ra hiện

nay đối với các doanh nghiệp và các định chế kinh tế khác đó là đầu tư mua sắm tài

sản cố định, mở rộng cơ sở xuất, đầu tư theo chiều sâu nhằm hiện đại hoá kỹ thuật

công nghệ, hoàn thành và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phục vụ nhu cầu

ngày càng cao của xã hội.

Muốn thực hiện được điều này các doanh nghiệp phải cần đến một lượng

vốn khá lớn và khoảng thời gian tương đối dài.Nguồn vốn mà các doanh nghiệp

dùng để đầu tư có thể là nguồn vốn tự có, vốn do Nhà nước cấp, vốn liên doanh

liên kết, vốn cổ phần hay vốn vay ngân hàng…Trong điều kiện nước ta hiện nay thì

tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc

đáp ứng vốn đầu tư cho các doanh nghiệp.

Tuy mới được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2003 đến nay nhưng chi

nhánh Ngân hàng công thương (NHCT) Khu Công Nghiệp Bắc Hà Nội đã đạt được

nhiều kết quả đáng khích lệ . Dư nợ tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng chiếm tỷ

trọng lớn trong tổng dư nợ.Tuy nhiên so với nhu cầu tín dụng trung dài hạn của các

doanh nghiệp, nguồn vốn huy động được thì cho vay trung dài hạn của ngân hàng

chưa thực sự tương xứng với tiềm năng. Bên cạnh đó chất lượng của tín dụng trung

dài hạn cũng cần xem xét đến cùng với sự tăng trưởng của quy mô tín dụng . Qua

thời gian thực tập , tìm hiểu tại ngân hàng, những kiến thức học được tại nhà trường

, đọc được qua sách báo và với sự giúp đỡ của các anh chị cán bộ trong ngân hàng.

Nhận thức thấy vai trò của tín dụng trung dài hạn nên tôi đã chọn đề tài: ''Nâng cao

chất lượng tín dụng trung dài hạn tại chi nhánh NHCT Khu công nghiệp Bắc Hà

Nội.'' để tìm hiểu.

Ngoài phần mở đầu , kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của

chuyên đề thực tập gồm 3 chương:

Chương I : Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương

mại.

Chương II: Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại chi nhánh NHCT Khu Công

Nghiệp Bắc Hà Nội.

Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại chi

nhánh NHCT Khu Công nghiệp Bắc Hà Nội.

Do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên những vấn đề

trình bày trong chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong rằng sẽ nhận

được những đóng góp bổ ích từ phía các thầy cô giáo, các cán bộ trong ngân hàng

để có thể bổ sung , hoàn thiện hơn vốn kiến thức của mình.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị cán bộ trong

Ngân hàng, đặc biệt là các anh chị cán bộ trong phòng kinh doanh tổng hợp đã

hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực tập và thực hiện chuyên đề này.

CHƯƠNG I: PHƯƠNG PHáP ĐáNH GIá CHấT LƯợng tín dụng của ngân hàng

thương mại

1.1 Một số vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại( NHTM)

1.1.1 Khái niệm

Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển

của nền sản xuất hàng hoá.Ngân hàng thương mại(NHTM) ra đời là kết quả của một

quá hình thành và phát triển lâu dài, phù hợp và gắn liền với tiến trình phát triển của

nền sản xuất hàng hoá. Nó được coi là sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá, là một

bộ phận không thể tách rời và tồn tại như một tất yếu trong nền kinh tế hiện đại.

Vậy NHTM là gì? Nó hoạt động như thế nào? Chức năng của nó là gì? Xung

quanh vấn đề này có rất nhiều quan diểm khác nhau.

Theo quan điểm của các nhà kinh tế học trên thế giới thì NHTM là một

doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.

Theo Peter S.Rose: ''Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một

danh mục các dich vụ tài chính da dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các

dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ

chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.''

Theo luật các tổ chức tín dụng của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam:''Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng

với nội dung thương xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng

và cung ứng các dịch vụ thanh toán.''

Chức năng của NHTM :

-Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính vưói hoạt động

chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại tổ chức và

cá nhân trong nền kinh tế:(1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức

là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người

cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu

nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ

có tiền để tiết kiệm sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với

ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu

cả hai cung có lợi. Ngân hàng thương mại đã thực hiện chức năng này, do vậy nó đã

làm tăng tiết kiệm cho việc đầu tư ngoài ra nó còn cung cấp những thông tin cụ thể

quan trọng chinh xác và đối xứng.

- NHTM có khả năng tạo phương tiện thanh toán: Theo quan điểm hiện đại,

đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông(Mo).

Thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại ngân hàng. Thứ

ba là tiền gửi trên các tài khoản, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn do vậy không

phải như ngân hàng của người thợ vàng - tạo phương tiện thanh toán thông qua việc

phát hành các giấy nợ với khách hàng hay in tiền kim loại, ngân hàng ngày nay khi

mà điều kiện thanh toán qua ngân hàng phát triển ngày càng nhanh, ngân hàng và

khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có

thể chi trả được để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng

cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách

hàng có thể mua hàng hoá và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay ( hay tạo tín dụng),

các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo M1. Toàn bộ hệ thống

ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ

ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân

hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì tạo nên khoản thu ( tức làm tăng số dư

tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản

cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn

dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo

phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).

- NHTM là một trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung gian thanh

toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng

thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng,

thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức

thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp

mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng

cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng

Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua

ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở

rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng được các nhà quản lý

tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo

tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia

mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế

được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở

thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả phục vụ đắc lực cho nền kinh

tế toàn cầu.

1.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

1.1.2.1 Huy động vốn

Đây là nghiệp vụ đầu tiên, là sự khởi tạo cho hoạt động của ngân hàng. Cho

vay được cai là hoạt động sinh lời cao do đó các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để

huy động vốn cho vay với chức năng này ngân hàng đóng vai trò là nhân tố tập hợp

các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thông qua các hình thức:

- Nhận tiền gửi của các cá nhân và tổ chức kinh tế. Đây là nguồn tiền chiếm tỉ lệ

chủ yếu trong cơ cấu nguồn vốn huy động của ngân hàng

- Nguồn đi vay: Trong quá trình kinh doanh, đôi khi NHTM có thể cũng lâm vào

tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả hay nhu cầu

vay vốn của khách hàng. NHTM có thể vay ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức

tín dụng khác, vay trên thị trường liên ngân hàng… đây là nguồn vốn rất cần thiết

và quan trọng, vì nó đáp ứng được kịp thời và đảm bảo cho hoạt động của ngân

hàng diễn ra một cách liên tục.

1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn

Vốn huy động được sẽ được ngân hàng đầu tư vào các khoản mục tài sản

khác nhau, nhằm đạt được mục tiêu mà ngân hàng đề ra.Nhìn chung sẽ được sử

dụng vào các hoạt động sau:

-Hoạt động tín dụng: hoạt động này đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng,

nó chiếm tỷ trọng chủ yếu và là hoạt động cơ bản của một ngân hàng. Tuy nhiên nó

lại chứa đựng nhiều rủi ro, ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của ngân hàng.

- Các hoạt động đầu tư khác: Hoạt động này rất đa dạng và góp phần làm tăng thêm

thu nhập cho các ngân hàng. Đó là hình thức ngân hàng tham gia vào hoạt động góp

vốn, mua cổ phần của các công ty, liên doanh liên kết, mua bán chứng khoán, cổ

phiếu, trái phiếu nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro, đem lại

nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng,

1.1.2.3 Các hoạt động khác

NHTM thực hiện các uỷ nhiệm của khách hàng trong giao dịch thanh toán,

chuyển tiền, thu hộ, tư vấn , môi giới và nhận một khoản thu nhập về việc làm trung

gian đó.

1.2 Hoạt động tín dụng trung dài hạn tại NHTM

1.2.1Khái niệm

1.2.1.1 Khái niệm và phân loại tín dụng

Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy tuỳ theo góc độ

nghiên cứu mà ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.

Tín dụng(credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo( tin tưởng, tín nhiệm).

Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng dược hiểu theo nhiều nghĩa khac nhau;

ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng

có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa

sau:

-Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang

chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ

người cho vay sang người đi vay.

-Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên

cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại

bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển

giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua

phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các tổ

chức tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho

vay, tức là ngân hàng cấp tiền cay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định

người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.

-Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung

cấp cho khách hàng.

-Trong một số ngữ cảnh cụ thể thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ

cho vay

Mục đích của chương này là xem xét tín dụng như là một chức năng cơ bản

của ngân hàng, vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng

thì tín dụng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản( tiền hoặc hàng

hoá) giữa bên cho vay( ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay( cá

nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên đi vay chuyển giao tài sản

cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có

trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh

toán.

Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ

sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:

Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm hai hình thức là cho vay(

bằng tiền) và cho thuê( bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về

trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính

đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với

nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài

chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách

hàng

Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài

sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng

hạn. đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trin tín dụng.

Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách

khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần vốn gốc. Để thực hiện được

nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói

cách khác phải xác định lãi suất thực dương( lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa- tỷ

lệ lạm phát). Tuy nhiên vì lãi xuất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên

trong một số trường hợp cụ thể lãi xuất danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát,

ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn.

Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn

trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!