Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay
PREMIUM
Số trang
196
Kích thước
1.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1900

Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THỊ BẠCH YẾN

TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ

NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THỊ BẠCH YẾN

TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ

NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số́ : 62 31 23 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.

Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trương Thị Bạch Yến

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6

Chương 1: TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN

TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN - NHỮNG

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 28

1.1. Xã và nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các

tỉnh Tây Nguyên 28

1.2. Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các

tỉnh Tây Nguyên - khái niệm, phương thức và vai trò 54

Chương 2: NGUỒN VÀ TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ

NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY

NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN,

KINH NGHIỆM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 76

2.1. Thực trạng nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở

các tỉnh Tây Nguyên hiện nay 76

2.2. Thực trạng tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu

số ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay 82

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

ĐẨY MẠNH TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ

NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY

NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020 113

3.1. Dự báo những yếu tố tác động và phương hướng tạo nguồn cán

bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên

đến năm 2020 113

3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác tạo nguồn cán bộ,

công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên đến

năm 2020 121

KẾT LUẬN 154

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI 157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160

PHỤ LỤC 174

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CB,CC : Cán bộ, công chức

CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

DTTS : Dân tộc thiểu số

GS : Giáo sư

HĐND : Hội đồng nhân dân

HTCT : Hệ thống chính trị

KT-XH : Kinh tế - xã hội

Nxb : Nhà xuất bản

PGS : Phó giáo sư

ThS : Thạc sĩ

TS : Tiến sĩ

UBND : Uỷ ban nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo Luật Cán bộ, công chức (2008), cán bộ cấp xã là người được bầu cử

giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy

ban nhân dân (UBND), Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức

chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ

một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và

hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Như vậy, để có cán bộ, công chức (CB, CC) giữ các chức danh trong hệ

thống chính trị (HTCT) ở xã, việc bầu cử, tuyển dụng là khâu chốt cuối cùng.

Nhưng đội ngũ đó có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng

và có sự chuyển tiếp vững vàng, liên tục giữa các thế hệ hay không lại phụ thuộc

vào yếu tố có tính quyết định: chất lượng nguồn do công tác tạo nguồn trước đó

mang lại. Phát hiện, thu hút, quy hoạch tạo nguồn tốt, số lượng nguồn phong

phú, đa dạng giúp cấp ủy chủ động chọn nguồn đủ số dư cho nhân sự bầu cử,

tuyển chọn thuận lợi, tránh được tình trạng hẫng hụt cán bộ, nhất là khi chuyển

giai đoạn cách mạng. Đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa nguồn tốt, đội ngũ nguồn

sớm đạt chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất thì công tác quy hoạch, bố trí, sử

dụng CB, CC sẽ chủ động.

Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác tạo nguồn

cán bộ. Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

(CNH, HĐH) đất nước, việc chủ động phát hiện tài năng trẻ, cán bộ có triển

vọng đưa vào quy hoạch dự nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, tăng tỷ lệ cán bộ trẻ, xuất

thân từ công nhân, nông dân, con em các gia đình có công với cách mạng, cán bộ

dân tộc thiểu số (DTTS), cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần

chúng... được các cấp bộ đảng quán triệt sâu sắc và quyết liệt tổ chức thực hiện,

mang lại những chuyển biến tích cực về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của

tổ chức đảng ở nhiều địa phương, đơn vị trên cả nước.

2

Tây Nguyên là địa bàn chiến lược của cả nước, nơi cư trú của hơn 5,2 triệu

người, trong đó có gần 2 triệu người thuộc 46 DTTS (chiếm tỷ lệ 37,84% số dân).

Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở hiện có trên 23.500 người, trong đó 26,8% là người

DTTS. Bên cạnh cán bộ người Kinh đến từ nhiều nguồn, đội ngũ cán bộ người

DTTS đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội

(KT-XH), giữ vững ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở, nhất là các xã có đông đồng

bào DTTS sinh sống. Đó là kết quả của quá trình tạo nguồn và xây dựng đội ngũ

cán bộ cơ sở có kế hoạch của các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên, đặc biệt là từ khi có

Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của Đảng.

Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy nhanh quá trình xây dựng nông thôn mới

theo hướng CNH, HĐH, xét một cách toàn diện, đội ngũ CB, CC xã là người

DTTS ở Tây Nguyên hiện vẫn còn không ít hạn chế. Số lượng, cơ cấu thành

phần, năng lực, trình độ, mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cả đội ngũ chưa

đồng bộ. Khá phổ biến tình trạng cán bộ có trình độ thấp; năng lực bao quát,

quyết đoán trong chỉ đạo thực tiễn không cao; có nơi bắt đầu hẫng hụt cán bộ sau

khi lớp cán bộ trưởng thành trong kháng chiến nghỉ công tác... Thực tế đó tạo

nên trở ngại lớn cho việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở một địa bàn miền

núi chiến lược trọng yếu đông đồng bào DTTS sinh sống.

Những hạn chế đó có nguyên nhân từ việc tạo nguồn CB, CC xã là người

DTTS ở Tây Nguyên vừa qua còn nhiều bất cập. Công tác tuyên truyền, vận

động, xây dựng các phong trào hành động cách mạng tại các thôn, buôn nhằm

bồi dưỡng, rèn luyện, phát hiện quần chúng ưu tú là người DTTS hiệu quả còn

thấp. Công tác giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho học sinh, sinh

viên, công chức tập sự, cán bộ giữ vị trí thấp là người DTTS để chuẩn bị nguồn

cho công chức và cán bộ ở vị trí cao hơn chưa đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa

nguồn. Việc xây dựng chính sách hỗ trợ chưa đủ mạnh để thu hút nguồn nhân

lực chất lượng cao là người DTTS về các xã. Công tác phát triển đảng viên mới

người DTTS còn hạn chế, trong một thời gian dài còn có nhiều thôn, buôn chưa

có chi bộ đảng độc lập, thậm chí “trắng” đảng viên... Khắc phục những hạn chế,

3

yếu kém ấy là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên

trong giai đoạn hiện nay.

Xuất phát từ tình hình nêu trên, tôi chọn vấn đề “Tạo nguồn cán bộ, công

chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay” làm đề

tài Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt

Nam, với mong muốn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, thúc đẩy

việc tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên ngày một tốt hơn.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án

2.1. Mục đích

Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tạo nguồn CB, CC xã

là người DTTS ở Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp

chủ yếu đẩy mạnh việc tạo nguồn đội ngũ này đến năm 2020.

2.2. Nhiệm vụ

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

- Khái quát tình hình Tây Nguyên, hệ thống chính trị các xã, đặc điểm, vai

trò của CB, CC và nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên.

- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò tạo nguồn CB, CC xã

người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên.

- Đánh giá đúng thực trạng nguồn và công tác tạo nguồn CB, CC xã người

DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên, rút ra nguyên nhân của thực trạng, những kinh

nghiệm và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn.

- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh việc

tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án

* Đối tượng nghiên cứu của Luận án: là tạo nguồn CB, CC xã người

DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên nước ta hiện nay.

* Phạm vi nghiên cứu:

- Luận án khảo sát, nghiên cứu việc tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở

5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắc, Đắk Nông, Lâm Đồng.

4

- Thời gian nghiên cứu từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước ra đời đến nay, phương hướng, giải pháp đến năm 2020.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của Luận án

4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

* Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác cán

bộ, công tác tạo nguồn cán bộ. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công

trình khoa học có liên quan đã được công bố.

* Cơ sở thực tiễn: Luận án được nghiên cứu từ thực tiễn xây dựng đội ngũ

cán bộ nói chung, công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây

Nguyên nói riêng, được phản ánh trong các văn bản báo cáo, các bảng biểu

thống kê lưu trữ của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan

chức năng có liên quan, và kết quả điều tra, khảo sát trực tiếp.

4.2. Phương pháp nghiên cứu của Luận án

Luận án được nghiên cứu trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin; sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên

ngành và chuyên ngành, như: lôgic-lịch sử, phân tích-tổng hợp, hệ thống, thống

kê-so sánh, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia.

5. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận án

- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức tạo nguồn CB, CC xã người

DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên.

- Kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã là

người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên những năm vừa qua.

- Đề xuất hai giải pháp có tính đặc thù, khả thi nhằm đẩy mạnh tạo nguồn CB,

CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020: Một là, củng cố, phát triển

và giao trách nhiệm cụ thể cho hệ thống các trường dân tộc nội trú, các cơ sở giáo dục

- đào tạo trên địa bàn Tây Nguyên tham gia tạo nguồn CB, CC xã người DTTS. Hai

là, xây dựng, củng cố và phát huy vai trò HTCT xã, lực lượng người có uy tín trong

cộng đồng DTTS ở thôn, buôn trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS.

5

6. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án

- Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo, giúp các cấp ủy đảng đẩy mạnh công tác tạo nguồn CB, CC xã là người

DTTS ở Tây Nguyên.

- Kết quả nghiên cứu của Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo

phục vụ hoạt động nghiên cứu, học tập môn Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam

trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ

sở đào tạo khác, đặc biệt là các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng

chính trị huyện ở Tây Nguyên.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên

quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của Luận

án gồm Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và 3 chương, 6 tiết.

6

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có tạo nguồn cán bộ của đảng cộng sản

là vấn đề đã được trình bày trong nhiều tác phẩm kinh điển của C.Mác,

Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh; bài viết của các lãnh tụ của Đảng, Nhà

nước; công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong thời gian gần đây, có

thể tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án như sau:

I. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến công tác cán bộ và tạo nguồn

cán bộ nói chung

Công tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động xây dựng Đảng

Cộng sản Việt Nam. Bài học mà V.I.Lênin từng tổng kết: “Trong lịch sử, chưa

hề có một giai cấp nào nắm được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được

trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có

đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [82, tr.473] trở thành mối quan tâm

hàng đầu của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Khi Đảng ta tiến

hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là từ khi Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ra đời (1997) đến nay, nhiều công trình

khoa học được triển khai, đề cập tổng thể những vấn đề lý luận và thực tiễn công

tác cán bộ của Đảng.

Sách “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ

thống chính trị đổi mới” (1998) của PGS,TS Trần Xuân Sầm (chủ biên) và sách

“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2001) của Nguyễn Phú Trọng,

Trần Xuân Sầm là hai công trình nghiên cứu lớn, xác định rõ cơ sở lý luận và

thực tiễn của chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ta trong thời kỳ mới,

đặc biệt là những yêu cầu, đòi hỏi cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ trong HTCT các

cấp. Theo các tác giả, việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ phải xuất phát

từ thực tiễn Việt Nam và thế giới; phải căn cứ vào đường lối cán bộ của Đảng đã

7

được kiểm nghiệm từ cuộc sống; khai thác những nhân tố hợp lý về tiêu chuẩn

quan chức trong các vương triều phong kiến và chú ý đến đặc trưng của con

người Việt Nam truyền thống, đồng thời tham khảo kinh nghiệm và thành tựu

khoa học quản lý của các nước. Đây là những quan điểm rất đổi mới về công tác

cán bộ của Đảng, Luận án có thể kế thừa và vận dụng vào việc luận bàn về mục

tiêu tạo nguồn và đổi mới việc xây dựng tiêu chuẩn nguồn CB, CC xã người

DTTS phù hợp với điều kiện và xu thế phát triển của vùng Tây Nguyên.

Nhiều công trình khác như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.09 “Xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” (2002-2004) của Bộ Nội vụ; sách “Xây dựng

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước” (2007) của Vũ Văn Hiền (chủ biên), Trần Quang Nhiếp,

Lê Đức Bình…; sách “Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức”

(2011) của TS Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên (Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội)... tiếp tục đưa ra nhiều luận cứ khoa học của việc xây

dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành nước ta. Qua đó, nhiều vấn đề được khẳng

định: về vị trí, vai trò nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng của cán bộ và

công tác cán bộ; về yêu cầu đức - tài, phẩm chất - năng lực của tiêu chuẩn cán bộ

đặt trong trong quan hệ với nhiệm vụ chính trị, với xu thế của thời đại; về trách

nhiệm của các cấp chủ thể, nhất là cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, HTCT; về

quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng

đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH. Luận án có thể kế thừa

các kết quả nghiên cứu trên để vận dụng vào việc làm rõ vai trò của đội ngũ CB, CC

và những yêu cầu đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên.

Bài viết “Công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của

Đảng” (2004) của Vũ Văn Hiền và Tạ Xuân Đại (Hội thảo lý luận giữa Đảng

Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc: Xây dựng đảng cầm quyền -

kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc) khẳng định công tác

cán bộ của Đảng ta là vấn đề then chốt của nhiệm vụ then chốt; xây dựng đội

8

ngũ cán bộ chủ chốt là điều cốt lõi của vấn đề then chốt, vì vậy cần chuẩn bị

chiến lược cán bộ, với nội dung quan trọng là tạo nguồn, xây dựng quy hoạch và

chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, giáo dục cán bộ.

Đối với hai khâu quan trọng của công tác cán bộ là đào tạo và luân chuyển,

có các công trình: Đề tài khoa học cấp Bộ (1998-1999) “Những căn cứ lý luận và

thực tiễn xác định nội dung, chương trình đào tạo cán bộ chủ chốt cơ sở miền núi

đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay” do TS Trần Ngọc Uẩn

(Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) làm chủ nhiệm, nhấn mạnh việc xây

dựng một chương trình phù hợp phải được coi là nội dung cốt lõi trong công tác

đào tạo cán bộ. Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2002)-07 "Cơ sở lý luận và thực tiễn

đánh giá, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đạ hóa đất nước", chủ nhiệm PGS, TS Trần Đình Hoan lần đầu tiên bàn về công

tác luân chuyển với tư cách là khâu góp phần đào tạo cán bộ qua thực tiễn. Luân

chuyển gắn liền với quy hoạch, và có thể theo 3 hướng: luân chuyển ngang, trên

xuống, dưới lên. Vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức nơi đi và nơi đến của

cán bộ luân chuyển đều được nhấn mạnh. Những vấn đề liên quan đến chế độ

chính sách hỗ trợ đời sống, điều kiện, phương tiện để hoàn thành tốt nhất nhiệm

vụ cũng là nội dung được tổng kết và đề xuất trong Đề tài. Những kết quả nghiên

cứu của đề tài có thể giúp Luận án hoàn thiện hơn trong giải pháp đổi mới nội

dung tạo nguồn CB, CC xã, phần đổi mới công tác luân chuyển tạo nguồn.

Tạo nguồn cán bộ nằm trong phạm vi công tác cán bộ, nên có khá nhiều

công trình nghiên cứu bàn về nó, sử dụng thuật ngữ “tạo nguồn” trong tên công

trình, hoặc phạm vi rộng hơn là “xây dựng đội ngũ cán bộ”, trong đó có cán bộ

người DTTS, nhưng nhìn chung nội hàm khái niệm “tạo nguồn” chưa được minh

định. Tuyệt đại bộ phận các bài báo khoa học hiện nay đều xuất phát từ quan

niệm tạo nguồn cán bộ tập trung ở quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng nguồn, nên

thực trạng và giải pháp cho tạo nguồn cũng hướng chủ yếu về nâng cao chất

lượng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tiêu biểu có: bài viết “Bộ đội

Biên phòng với việc tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số” của Thiếu tướng Võ

9

Trọng Việt (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 15-2-2007); “Tạo nguồn cán bộ từ

đồng bào dân tộc thiểu số” của Nguyễn Văn Bình (Webside Quảng Nam online,

5-10-2009); “Nét mới trong tạo nguồn bí thư, chủ tịch xã phường ở Đồng Nai”

của Thủy Anh (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 9-2009); “Hải Phòng tạo nguồn

cán bộ lãnh đạo trẻ” của Lê Xuân Lịch (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 1-2010);

“Tạo nguồn lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng” của Bùi Văn Tiếng (Tạp chí Xây

dựng Đảng, tháng 4/2010) v.v.. Tuy còn hạn hẹp trong quan niệm và giải pháp tạo

nguồn, nhưng giá trị của các bài viết cho thấy bức tranh khá đa dạng về thực trạng

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn, cùng những mô hình, kinh nghiệm hay, có thể

dùng làm cơ sở để xác định những nội dung trọng tâm, những vấn đề đặt ra trong

công tác tạo nguồn cán bộ trên bình diện chung và cho đề tài Luận án nói riêng.

Bên cạnh đó, một số đề tài khoa học, luận văn, luận án gần đây mở rộng

được phạm vi hoặc đi sâu vào một số nội dung tạo nguồn cán bộ cụ thể:

Tại Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về công tác quy hoạch cán bộ” (1998)

thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KHXH.05, TS Đỗ Xuân Định có

bài “Vấn đề tạo nguồn trong quy hoạch cán bộ” bàn về hai cách tạo nguồn: từ xa và

trực tiếp. Theo tác giả, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí là

cách tạo nguồn từ xa, còn việc đưa cán bộ vào hoạt động thực tiễn và phong trào

cách mạng của quần chúng để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, sàng lọc là cách tạo

nguồn trực tiếp từng loại cán bộ. Thực chất của tạo nguồn trực tiếp là “sự tiếp tục

đào tạo trong thực tiễn”, là “sự đào tạo trong quá trình sử dụng”, vì vậy cần sử dụng

đúng chuyên ngành đào tạo, bố trí công việc thích hợp, từ thấp đến cao, từ đơn giản

đến phức tạp. Trong tạo nguồn, không chỉ đòi hỏi cao về đạo đức, năng lực công tác

cán bộ, mà phải chú ý đến chính sách đãi ngộ, khuyến khích lợi ích vật chất, bởi nó

“như là một tất yếu đi đôi với những giá trị tinh thần và việc bồi dưỡng lý tưởng

cách mạng”. Những tiếp cận mang tính khái quát này là gợi mở quan trọng cho việc

xây dựng bộ khung lý thuyết về nội dung tạo nguồn của Luận án.

Đề tài khoa học cấp Bộ (2005) “Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở

các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay” do TS Đoàn Minh Huấn làm chủ nhiệm, đưa ra

10

các khái niệm và cách tiếp cận vấn đề tạo nguồn cán bộ chủ chốt, phân tích đánh giá

thực trạng công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho HTCT cấp xã các tỉnh Tây Bắc

nước ta những năm qua. Đề tài cũng tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn trong việc tạo

nguồn cán bộ chủ chốt của HTCT cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc qua việc nghiên cứu

hoạt động này ở một số trường chính trị trong khu vực, đề xuất những giải pháp đẩy

mạnh công tác tạo nguồn cán bộ HTCT cơ sở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới.

Đề tài khoa học “Vấn đề tạo nguồn cán bộ các xã vùng sâu, vùng xa đặc biệt

khó khăn - thực trạng và giải pháp” (Mã số KHBD (2009) - 51) của ThS Trần Thị

Hương đưa ra khái niệm “Tạo nguồn cán bộ cơ sở cấp xã vùng cao, vùng xa đặc

biệt khó khăn là quá trình phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những người

công tác tại cơ sở xã, thôn bản thuộc khu vực này, hoặc có thể là học sinh, sinh

viên, để giúp họ có đủ các điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở”. Khái niệm cho

thấy: đối tượng tạo nguồn là người đang công tác tại chỗ, hoặc học sinh, sinh viên;

nội dung tạo nguồn là phát hiện, quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đối tượng; mục

tiêu tạo nguồn là giúp đối tượng có đủ điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở. Có thể

đánh giá: với mục tiêu nói trên, thì nội dung tạo nguồn mà tác giả đề cập chưa thể

đáp ứng, bởi sau khi phát hiện và quy hoạch, chỉ bằng công tác đào tạo, bồi dưỡng

thì sẽ không đủ để chuẩn hóa nguồn theo tiêu chuẩn cán bộ cơ sở.

Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng “Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

huyện ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay” (2010) của Trần Hoàng Khải đưa ra được một số

quan niệm mới về nguồn và tạo nguồn cán bộ. Tác giả phân biệt 4 loại nguồn:

Nguồn kế cận (đã được quy hoạch, đang trực tiếp tham mưu, giúp việc cho cán bộ

đương chức giữ chức danh mình được quy hoạch và sẵn sàng cho việc thay thế

ngay chức danh đó khi có nhu cầu sử dụng cán bộ). Nguồn dự bị dài hạn (là những

CB, CC đã được quy hoạch và đang trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng). Nguồn cán

bộ hoạt động thực tiễn (trong phong trào quần chúng) và Nguồn học sinh, sinh viên

(trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ

thông). Từ quan niệm về nguồn nói trên, tác giả cho rằng “Tạo nguồn là hoạt động

tích cực, tự giác, chủ động của các chủ thể để hình thành nguồn”; “Tạo nguồn cán

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!