Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tâm thức hiện sinh trong chinh phụ ngâm của đặng trần côn và cung oán ngâm của nguyễn gia thiều
PREMIUM
Số trang
137
Kích thước
1.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1546

Tâm thức hiện sinh trong chinh phụ ngâm của đặng trần côn và cung oán ngâm của nguyễn gia thiều

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

--------------

TRƯƠNG THỊ THUẬN AN

TÂM THỨC HIỆN SINH TRONG CHINH PHỤ NGÂM

CỦA ĐẶNG TRẦN CÔN VÀ CUNG OÁN NGÂM

CỦA NGUYỄN GIA THIỀU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Đà Nẵng, tháng 5/2017

2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

--------------

TÂM THỨC HIỆN SINH TRONG CHINH PHỤ NGÂM

CỦA ĐẶNG TRẦN CÔN VÀ CUNG OÁN NGÂM

CỦA NGUYỄN GIA THIỀU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn:

ThS. Nguyễn Quang Huy

Người thực hiện:

Trương Thị Thuận An

(Khóa 2013-2017)

Đà Nẵng, tháng 5/2017

3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung

nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa công bố dưới

bất kỳ hình thức nào trước đây. Trong khóa luận này đã sử dụng một số nhận xét,

đánh giá của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.

Sinh viên thực hiện

(Ký và ghi rõ họ tên)

Trương Thị Thuận An

4

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn

Quang Huy, đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình viết báo cáo tốt nghiệp.

Em chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư

phạm – ĐHĐN đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học tập. Với

vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập không chỉ là nền tảng cho quá

trình nghiên cứu đề tài khóa luận mà còn là hành trang quý báu để em có thể vận

dụng vào công việc của mình sau này.

Mặc dù đã cố gắng song khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi những

thiếu sót. Kính mong quý thầy cô giáo cùng toàn thể bạn bè góp ý để đề tài được

hoàn thiện hơn.

Cuối cùng em kính chúc quý thầy cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự

nghiệp cao quý.

Đà Nẵng, Ngày 28 tháng 4 năm 2017

Sinh viên thực hiện

(Ký và ghi rõ họ tên)

Trương Thị Thuận An

5

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1

1.Lí do chọn đề tài...................................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................... 2

3.1.Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 2

3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 2

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................................... 3

4.1. Những nghiên cứu về văn học Việt Nam từ tâm thức hiện sinh............................. 3

4.2. Những nghiên cứu về Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm mang dấu ấn hiện

sinh ........................................................................................................................... 7

4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 11

5. Cấu trúc đề tài ....................................................................................................... 13

NỘI DUNG ............................................................................................................... 13

Chương 1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÂM THỨC HIỆN SINH........ 13

1.1. Quan niệm về hiện sinh....................................................................................... 13

1.2. Tâm thức hiện sinh .............................................................................................. 13

1.3. Các cảm trạng tâm lí của con người nhìn từ tâm thức hiện sinh ........................... 14

1.3.1. Cảm trạng tâm lí hiện sinh theo chiều phản tỉnh................................................ 14

1.3.2. Cảm trạng tâm lí hiện sinh theo chiều mù quáng.............................................. 17

Tiểu kết chương 1....................................................................................................... 19

Chương 2. TÂM THỨC HIỆN SINH TRONG CHINH PHỤ NGÂM VÀ

CUNG OÁN NGÂM THEO CHIỀU HƯỚNG PHẢN TỈNH.................................. 20

2.1. Tâm thức lựa chọn dấn thân................................................................................. 20

2.2. Tâm thức ưu tư và dự phóng về tương lai ............................................................ 31

2.3. Tâm thức phản kháng .......................................................................................... 36

2.4. Tâm thức vươn tới tự do ...................................................................................... 42

2.5. Tâm thức phản tỉnh.............................................................................................. 56

2.6. Tâm thức hướng đến hiện hữu ............................................................................ 69

6

Tiểu kết chương 2....................................................................................................... 77

Chương 3. TÂM THỨC HIỆN SINH TRONG CHINH PHỤ NGÂM VÀ CUNG

OÁN NGÂM THEO CHIỀU HƯỚNG MÙ QUÁNG.............................................. 79

3.1. Tâm thức cô đơn ................................................................................................ 79

3.2. Tâm thức ngụy tín.............................................................................................. 87

3.3. Tâm thức lưu đày ............................................................................................... 92

3.4. Tâm thức bất mãn trước số phận và cuộc đời ...................................................... 108

Tiểu kết chương 3....................................................................................................... 120

KẾT LUẬN............................................................................................................... 121

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 123

7

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong sáng tác văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX,

nhiều tác giả đã dành những trang tuyệt bút để viết về người phụ nữ, cảm thông với

số phận bất hạnh, trân trọng tài sắc và nói lên quyền sống của họ. Hai trong số

những tác phẩm xuất hiện đầu tiên trong văn học giai đoạn này viết về đề tài người

phụ nữ đó chính là Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Cung oán ngâm của

Nguyễn Gia Thiều. Hai khúc ngâm đã diễn tả sâu sắc bi kịch tâm thần của con

người. Mặt khác còn cho ta một cái nhìn cảm thương trước thân phận của những kẻ

phải gánh chịu nỗi thống khổ bi thiết giữa cuộc đời: gánh chịu truân chiên - Khách

má hồng nhiều nỗi truân chiên và gánh chịu định mệnh/ phận - Mà xui phận bạc

nằm trong má đào. Có nhiều vấn đề đã được đặt ra trong Chinh phụ ngâm và Cung

oán ngâm không còn là những vấn đề ám ảnh với chúng ta ngày nay nữa, thế nhưng

đọc lại tâm hồn ta vẫn cứ thấy rụng động, xao xuyến trước những nỗi khổ và khát

vọng của con người. Chính vì vậy sau khi tiếp cận Chinh phụ ngâm và Cung oán

ngâm, chúng tôi mong muốn thấu hiểu sâu sắc hơn về con người trong hai khúc

ngâm khi nhìn ở góc độ tâm thức, nên chúng tôi lựa chọn hướng nghiên cứu: soi rọi

hai tác phẩm dưới góc nhìn của tâm thức hiện sinh. Dự hướng về một tâm thức hiện

sinh là kết quả của tri thức tổng hợp của các kinh nghiệm hiện tượng luận hiện sinh

về các cảm trạng tâm lí người, khi ấy hiển nhiên giúp chúng ta tiếp cận những vấn

đề của văn bản trong tính nội tại của nó chứ không thuần túy là đến từ bên ngoài.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm,

trong đó cố nhiên đã phát hiện ra nhiều vấn đề mới, nhưng đến ngày hôm nay hai

tuyệt tác này vẫn là một mảnh đất màu mỡ cho nhiều nhà nghiên cứu khai phá để

khẳng định thêm nhiều giá trị ý nghĩa. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nào tập

trung nghiên cứu cả Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm trong cùng một phạm vi đề

tài. Do vậy, bước một bước đi mới, chúng tôi mạnh dạn đi sâu vào việc nghiên cứu

“Tâm thức hiện sinh” trong hai tác phẩm này.

Từ những lí do trên chúng tôi đã chọn đề tài Tâm thức hiện sinh trong

Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều để

8

nghiên cứu. Theo hướng nghiên cứu đã chọn đề tài này sẽ giúp chúng ta khám phá

ra nhiều vấn đề mới mẻ từ hai kiệt tác - Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm và nới

rộng sự hiểu biết về một hệ hình lý thuyết triết học phức tạp và quan trọng bậc nhất

của thế kỉ XX.

2. Mục đích nghiên cứu

Thông qua nghiên cứu Tâm thức hiện sinh trong Chinh phụ ngâm và Cung oán

ngâm, đề tài mong muốn có một cái nhìn toàn diện hơn về con người - nhân vật trữ

tình trong hai tác phẩm khi phân tích dưới góc nhìn tâm thức hiện sinh. Từ đó đi

đến việc khẳng định vai trò và sự ảnh hưởng lớn lao của triết học đến đời sống văn

học và tâm thức của con người. Qua quá trình phân tích đối tượng nghiên cứu, giải

mã vấn đề, đề tài nhằm tạo ra cái nhìn so sánh, đối chiếu, liên hệ giữa hai tác phẩm -

Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm với các hiện tượng văn học Việt Nam trong

giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX khi tìm hiểu các vấn đề liên quan. Và

mục đích cuối cùng là đi đến khẳng định giá trị của hai tác phẩm Chinh phụ ngâm

và Cung oán ngâm trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hai tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng

Trần Côn và Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Tham chiếu các vấn đề cơ bản trong triết học hiện sinh, phân tâm học và hiện

tượng luận hiện sinh, sau đó vận dụng các lí luận cơ bản ấy để đi vào phân tích Tâm

thức hiện sinh trong Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm.

Nghiên cứu văn học từ phương pháp hiện tượng luận hiện sinh, tâm thức hiện

sinh là đi tìm các hình ảnh thật của con người. Điểm xuất phát, lấy văn bản văn học

làm chủ thể - chủ thể của đời sống văn học. Từ cách hiểu này, chúng tôi đi sâu

khám phá những cảm trạng tâm lí của con người trong Chinh phụ ngâm và Cung

oán ngâm dưới góc nhìn của tâm thức hiện sinh. Với phạm vi đề tài này chúng tôi

tập trung phân tích hai kiểu dạng tâm thức sau: 1/ Tâm thức hiện sinh trong Chinh

9

phụ ngâm và Cung oán ngâm theo chiều hướng phản tỉnh, 2/ Tâm thức hiện sinh

trong Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm theo chiều hướng mù quáng.

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

4.1. Những nghiên cứu về văn học Việt Nam từ tâm thức hiện sinh

Trong văn học Việt Nam, Hiện tượng luận xuất hiện chủ yếu ở lĩnh vực phê

bình, khảo cứu với vai trò như một phương pháp. Trước năm 1975, người “nổ phát

súng” đầu tiên vận dụng phương pháp này vào phê bình văn học là Lê Tuyên. Lê

Tuyên đã tiến hành hàng loạt những nghiên cứu về ca dao, các hiện tượng văn học

Việt Nam trung đại như Nguyễn Khuyến, Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, qua hiện

đại như Vũ Hoàng Chương [31]. Lê Tuyên đã thử lửa, và thử lửa thành công với

phê bình hiện tượng học văn học qua các đối tượng văn học rất quen thuộc của dân

tộc bằng phương pháp hiện đại. Lê Tuyên đã đặt nền tảng cho phê bình hiện tượng

luận văn học ở Việt Nam, qua cái nhìn mơ mộng được phóng xuất ý hướng tính về

đối tượng. Trong Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày [30], qua

“cái nhìn về cuộc đời”, “cái nhìn vào số phận” với “không gian và hiện hữu lưu

đày”, “không gian mơ về từ mộng”, “không gian và hiện thực ly bôi”, “không gian

và chủ thể yêu thương”, Lê Tuyên giải mã nguyên nhân tấm thảm trạng bi kịch lưu

đày trong tâm thức của người chinh phụ. Người thiếu phụ đã đem cái nhìn mơ mộng

về sự xuất hiện của người chồng lí tưởng nhằm hướng tới, phóng xuất về phía hình

ảnh người chồng đang biệt xứ. Đến khi nhận ra sự thực, chính người chồng lí tưởng

ấy đã “bóp méo” ý thức tiên nghiệm mà người chinh phụ hướng về chồng mình.

Chính khát vọng cuộc sống hạnh phúc đã trở thành “thiết chế thông tin” vây hãm,

lấn át, che mờ con người thực, con người hoàn nguyên hiện tượng luận nơi người

chinh phụ. Khi nhận ra thì mọi sự đã rồi, người ra đi kẻ ở lại, ánh trăng trên đầu

không soi tỏ nỗi lòng se thắt, quặn đau của tâm thức lưu đày tuyệt vọng ấy. Trong

số những cuốn phê bình về Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đây là cuốn đáng

đọc nhất. Từng lời, từng chữ như phóng chiếu, xuất thể những tinh anh và tâm thức

mơ mộng. Chủ thể tính muốn vượt thoát hoàn cảnh, nhưng đời không cho vượt

thoát, quy hồi nội giới để ẩn mình, sống trong cảnh lưu đày tình cảm.

10

Các tác giả như Nguyên Sa, Nguyễn Văn Trung, Đặng Phùng Quân, Huỳnh

Phan Anh là những nhà văn kiêm nhà phê bình nhà nghiên cứu triết học, đã đưa

Hiện tượng luận vào văn học trong vai trò lược khảo, nhận định, dẫn nhập những

yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống văn học, cần phải khai thác. Nguyên Sa

(Trần Bích Lan) trong cuốn Quan điểm văn học và triết học đã dành hai mục lớn ở

phần 1 để giới thiệu về “Hiện tượng luận trong sáng tạo và phê bình văn học” [23].

Trong công trình này, Nguyên Sa đã áp dụng phương pháp giảm trừ của Hiện tượng

học để tẩy rửa đi từng lớp nghĩa, lần lần, làm lộ ra cái lõi bản chất sự sáng tạo của

người nghệ sỹ. Đặng Phùng Quân thì dành hai phần lớn trong ba phần của cuốn

sách Triết học và văn chương để chỉ bàn về văn học dưới cái nhìn “Hiện tượng luận

của Merleau Ponty” như các mục “Văn tự và siêu hình học”, “Đọc/ Viết”, “Bản

văn”, “Ngợi ca viết”… Huỳnh Phan Anh trong Đi tìm tác phẩm văn chương dành

hẳn một phần lớn, quan trọng để bàn về cái nhìn “Hiện tượng luận trong văn học”

với các mục: “Hành trình tác phẩm”, “Ám ảnh của tác phẩm”, “Phê bình và chống

phê bình” [1].

Lê Tuyên, từ những năm 60 thế kỉ trước, như vậy là rất sớm, ngay cả với các

đồng nghiệp ở miền Nam, đã dịch chuyển thành công phê bình văn học vào hệ hình

hiện đại lấy văn bản làm trung tâm, bằng phương pháp Hiện tượng học.

Sau 1975, Phương Lựu trong cuốn Mười trường phái phê bình văn học

phương Tây đương đại đã dành một mục để giới thuyết về Hiện tượng luận từ triết

học tới mỹ học và phê bình văn học [19]. Phạm Văn Sĩ trong Về tư tưởng và Văn

hóa phương Tây hiện đại cũng đã để một mục bàn về “Hiện tượng luận của

Husserl”, khi tác giả nhấn mạnh tới thân phận con người trong văn học [24]. Trong

công trình Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu đã đưa ra những nhận định về ý hướng

hiện sinh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp khi cho rằng nhân vật trong truyện

ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là những con người mang thuộc tính của hiện sinh “bất

ổn, luôn luôn di động, đi tìm tự do, dân chủ, đi tìm cái đẹp, đi tìm bản thân nó, đó là

nhân vật đa chiều, nhiều tầm vóc, không đơn điệu, không nhất phiến. Nhân vật ấy

dù là Chương, là Nhâm, là “Tôi hay Bạc Kỳ Sinh”... chỉ là một, con người cô đơn

đầy lo âu và đầy khát vọng” [14].

11

Công trình Tác phẩm văn học như là quá trình của Trương Đăng Dung là

chuyên luận “hiếm” trong hệ thống lý luận văn học ở Việt Nam [4]. Được đào tạo

bài bản trong tinh thần hiện tượng luận ở phương Tây, lại trực tiếp nghiên cứu

chuyên sâu, Trương Đăng Dung có những đánh giá hợp lý về bản chất văn học cũng

như những giới hạn của nó. Văn học giờ đây không phải/ không nên là tấm gương

tự nhiên, mà là tấm gương của thế giới tinh thần, phản ánh trung thực thế giới ý

niệm mà chủ thể thẩm mỹ có được khi hướng về đối tượng. Thành công của công

trình là điều cần ghi nhận. Ở các công trình của mình, nhất là Tác phẩm văn học

như là quá trình, Trương Đăng Dung đã nhấn đi nhấn lại tầm quan trọng lớn lao

của Hiện tượng học với Khoa học văn học hiện đại, hậu hiện đại [4]. Với khoa học

văn học, từ nay, hữu thể văn bản đã là một cấu trúc tự trị, một thế giới tự thân trọn

vẹn. Mệnh đề nổi tiếng của Husserl trở về chính bản thân sự vật, đã được các nhà

hiện tượng luận nghiên cứu văn học hiểu như là hành động quay trở lại chính bản

thân sự vật - văn bản. Văn bản thay vì phải/ bị hiểu từ các văn cảnh ngoài nó như

tiểu sử tác giả, hoàn cảnh xã hội… theo kiểu truyền thống tiền hiện đại, thì từ đây,

sẽ không phải chịu đựng bất cứ sự ràng buộc nào từ những quyền lực giải thích bên

ngoài. Văn bản từ quan điểm hiện tượng học, phải là vũ trụ đầu tiên và cuối cùng

cho hoạt động diễn giải. Đọc văn bản không phải là đem kinh nghiệm đã có đi vào

văn bản, ngược lại, kinh nghiệm về văn bản sẽ đến trong quá trình đọc. Hữu thể văn

bản cũng luôn tồn tại, nhưng chúng không có nghĩa, hay đúng hơn, không có nghĩa

gì cho tôi, xa lạ với hiện hữu tôi vì không được tôi biết đến. Văn bản chỉ có nghĩa

khi được ý hướng đọc của tôi chiếu vào. Tôi đọc, nghĩa là tôi cấp nghĩa, kiến tạo

nghĩa cho văn bản, văn bản khi ấy không xa lạ nữa, mà hiện hữu sống động trong

tôi qua hành vi đọc. Thế là, từ đây, văn bản trở thành tác phẩm. Tác phẩm vì thế bao

giờ cũng cụ thể, cá thể, gắn với hành vi đọc của tôi; và mỗi sự đọc khác nhau khi đi

qua văn bản thì sẽ có những tác phẩm khác nhau. Mỹ học tiếp nhận, như thế, đã đặt

lại từ bản thể luận các vấn đề của khoa học văn học.

Luận văn Tâm thức hiện sinh với lí luận văn học của Nguyễn Mạnh Tiến là

một công trình có những đóng góp nhất định về mặt lí luận. Khởi đi từ Hiện tượng

luận hiện sinh, tác giả lí giải về nền tảng của một thứ triết học hữu thể mới cũng

12

như sự xuất hiện của những tầng bậc tâm lí hiện sinh và phi hiện sinh. Song song

với việc khẳng định lại những tầng bậc tâm lí hiện sinh - cũng tức là những chân lí

với con người khi hiện hữu ở đời, người viết cũng đưa ra những chỉ dẫn cụ thể về

tâm lí phi hiện sinh - các hình thức sinh tồn mà con người vấp ngã vào để đến nỗi

đánh mất ý nghĩa làm người [49].

Đến năm 2013, tác giả Ngô Hương Giang đã xuất bản công trình Hiện tượng

luận về văn học đã giới thiệu những vấn đề căn cốt của Hiện tượng luận ở vai trò

triết học, đồng thời hướng cái nhìn cụ thể ấy vào một hiện tượng cụ thể trong thế

giới hiện tượng là: Văn học. Ở công trình này tác giả đã dành ra hai chương để viết

về: Bản thể luận của tác phẩm văn học và Giảm trừ hiện tượng luận văn học, trong

chương “Bản thể luận của tác phẩm” tác giả đi đến khẳng định bản thể của hoạt

động Hiểu và sáng tạo văn học là tri giác. Yếu tố quy định chủ thể tính có được

quyền tự do lựa chọn biểu tượng cũng như xác lập khái niệm chính là tri giác và

không đi ra ngoài tri giác tính. Trong chương Giảm trừ hiện tượng luận văn học: Từ

việc đi tìm lí luận sơ khởi để chứng minh nền tảng của sự Hiểu và sáng tạo nằm ở

tri giác tính, tác giả truy vấn tới vấn đề: Làm thế nào, thông qua tri giác, chủ thể

tính có thể trở về chính sự vật/ đối tượng như lập trường Hiện tượng luận xác

lập? Câu trả lời cho truy vấn ấy đã có ở chương này: Chỉ bằng và thông qua con

đường giảm trừ/quy hồi/quy giản hiện tượng luận, chủ thể tính có thể trở về với sự

vẫy gọi, chào đón từ phía đối tượng sau khi đã vượt qua tri giác tiên nghiệm về nó.

Sáng tạo đi ra từ đây! Và lập thức cũng đi ra từ đây! Sự muôn màu muôn vẻ, sự tiến

bộ của tri thức, sự thông tuệ, lóe chiếu của tư tưởng văn học cũng đi ra từ đây. Tất

cả những vấn đề ấy được gói gọn trong định đề triết học nổi tiếng của Edmund

Husserl: “Hãy trở về với chính sự vật” [13].

Ngoài các tác giả trên còn có một số nhà nghiên cứu tập trung phân tích, lý giải

những cảm trạng tâm lí người từ góc nhìn hiện sinh, tiêu biểu có thể kể đến một số

bài như [49]: “Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay” (Tạp chí

Văn học số 2/1994) của Lê Thị Hường; “Con người cô độc trong 17 tiểu thuyết đô

thị miền Nam 1954 - 1975” (Tạp chí Văn học số 3/2012) của Nguyễn Thị Việt Nga;

“Cảm thức lạc loài trong sáng tác của Thuận” (Tạp chí Văn học số 8/2010) của

13

Trịnh Đặng Nguyên Hương; “Cảm thức lạc loài trong văn xuôi đương đại” (Tạp chí

Văn học số 11/2011) của Trần Hạnh Mai - Ngô Thị Thu Hiền; Mặc cảm chết trong

tiểu thuyết của Thuận và Đoàn Minh Phượng (Luận văn thạc sĩ) của Ngô Thị

Thanh; Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua

một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và Nguyễn

Danh Lam) (Luận văn thạc sĩ) của Mai Thị Bình, v.v.. Mai Thị Bình đã đi từ cái

nhìn khái quát về phức cảm cô đơn đến việc định hình các kiểu dạng nhân vật cô

đơn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, trong đó, tác giả tập trung khắc họa hai

dạng chính là cô đơn bản thể và cô đơn vì không thể hòa nhập. Một số bài viết khác

lại lưu tâm đến cảm giác lạc loài - dạng thức tâm lí song trùng với nỗi cô đơn, tiêu

biểu có thể kể đến “Cảm thức lạc loài trong sáng tác của Thuận” (Tạp chí Văn học

số 8/2010) của Trịnh Đặng Nguyên Hương; “Cảm thức lạc loài trong văn xuôi

đương đại” (Tạp chí Văn học số 11/2011) của Trần Hạnh Mai - Ngô Thị Thu

Hiền… Tồn tại người được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau để hướng đến lý

giải nguyên nhân của sự lạc loài.

Một tâm thức hiện sinh xuất phát từ hiện tượng luận hiện sinh đi vào diễn giải

về những đặc điểm của khoa học văn học đã mở ra cho chúng ta những khả năng

mới trong nghiên cứu văn học. Thông qua đó, chúng ta có thể lý giải được tại sao

lại có sự dịch chuyển từ mô hình tư duy văn học cổ điển quan niệm văn học như

một thực thể tĩnh tại sang mô hình tư duy văn học xem văn học như một thực thể

động – một cấu trúc tâm thần hoàn chỉnh.

4.2. Những nghiên cứu về Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm mang dấu ấn

hiện sinh

Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm là hai tác phẩm đặc sắc nhất của thể loại

ngâm khúc, thể hiện tài năng, tư tưởng của Đặng Trần Côn và Nguyễn Gia Thiều.

Đồng thời cũng là hai tác phẩm khởi đầu cho trào lưu nhân đạo của văn học Việt

Nam nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX. Và đây cũng là nguồn cứ liệu

phong phú để các nhà nghiên cứu khám phá ra nhiều khía cạnh mới từ hai tác phẩm

này. Cho đến nay đã có rất nhiều vấn đề được tìm hiểu, nghiên cứu trên cả mặt nội

dung lẫn mặt nghệ thuật của hai tác phẩm.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!