Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tại sao lợi nhuận lại là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển đồng thời
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
PHẦN MỞ ĐẦU
Môn kinh tế chính trị tư bản bắt nguồn tử chủ nghĩa trọng thương.
Nó thống trị tư duy kinh tế của chủ nghĩa tư bản thế kỷ XV đến thế kỷ
XVII và tồn tại trong đầu thế kỷ XVIII. A. Mông Grêchiên nhà trọng
thương người Pháp (1575-1629), là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “kinh
tế chính trị học” trong tác phẩm “chuyển luận về kinh tế chính trị học” ông
xem kinh tế chính trị là khoa học về kế toán Nhà nước, ông nghiên cứu sự
tham gia tích cực của nhà nước vào đời sống kinh tế, sự hộ trợ của Nhà
nước cho quá trình tích luỹ ban đầu. Lý luận của chủ nghĩa trọng thương là
sự thử nghiệm đầu tiên việc nghiên cứu về lý luận phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Trong thời ký này tư bản thương nghiệp chiếm địa vị thống
trị và thực sự chỉ có lĩnh vực lưu thông hàng hoá mang tính chất tư sản.
trong khi nhận thức đúng đắn rằng sự săn đuổi lợi nhuận là động lực của
chủ nghĩa tư bản nguồn gốc của lợi nhuận là tư thương nghiệp mà trước hết
là từ ngoại thương, do đó họ không giải thích được bản chất của lợi nhuận
và của tiền tệ.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho luận điểm của chủ
nghĩa trọng thương lỗi thời. Vì theo đã phát triển của chủ nghĩa tư bản
không đơn thuần là tích luỹ tiền nữa, mà là tái sản xuất mở rộng. Trọng tâm
của các nhà kinh tế tư bản chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản
xuất. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng nông đặt trọng tâm vào sản xuất Nông nghiệp. Công
lao của các nhà trọng nông là chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của cải từ
lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Họ quan điểm một cách hạn chế
rằng, chỉ có Nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm ròng (tức là chỉ thu thuế từ
chủ trang trại và chủ sở hữu ruộng đất). Chính sách thuế này khuyến khích
1
sự phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp. Họ phân tích một cách khoa
học về tư bản cố định và tư bản ứng dụng trước hàng năm. Ph.Kênê là
người đầu tiên nêu lên phạm trù “tái sản xuất ” và sơ đồ tái sản xuất trong
“Biểu kinh tế ” mà sau này C.Mác kế thừa khi nghiên cứu lý luận tái sản
xuất và lưu thông tổng tư bản xã hội. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với
chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông còn hạn chế, đặc biệt chỉ
giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong Nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng
đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế chính trị tư
sản cổ điển.
Kinh tế chính trị tư sản cổ điểm quan niệm đối tượng của kinh tế
chính trị là nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của của cải, sự giầu có của các
dân tộc và sự phân phối của cải đó giữa các tầng lớp xã hội. Kinh tế chính
trị tư bản cổ điển khẳng định, lao động sản xuất là nguồn gốc của giá trị
hàng hoá, còn lợi nhuận, lợi tức, địa tô là những khoản khấu trừ vào sản
phẩm của lao động hay là vào giá trị của những sản phẩm đó. Do.Ricardo,
tiêu biểu cho trường phái này đã nhận rõ lợi nhuận bắt nguồn gừ lao động
không được trả công. Vì vậy có mâu thuẫn giữ tiền công và lợi nhuận.
Kinh tế chính trị học cổ điển Anh mở đầu từ U.Pðtti (W.Petty)
(1622-1687) đến A.Ximít (A.Ximít) là nhà kinh tế của thời kỳ công thương
thủ công của chủ nghĩa tư bản. Còn Đ.Ricácđo là nhà kinh tế của thời kỳ
đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản, là đỉnh cao của lý luận của
kinh tế chính trị học tư sản cổ điển.
Học thuyết kinh tế của Mác ra đời vào giữa thế kỷ Xĩ đây là thời kỳ
lịch sử mà giai cấp tư sản đã giành được chính quyền đã hoàn thành cuộc
cách mạng chủ nghĩa, đã củng cố vững chắc sự thống trị của mình, đồng
thời, chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng, những
cuộc khủng hoảng kinh tế đã pháp hoại nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
2
Kinh tế chính trị học do C,Mác và Ph-Ăngghen sáng lập là một cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật chính trị vì nó dựa trên phương pháp biện
chứng duy vật, của giai cấp công nhân. C.mác đã xây dựng nên học thuyết
giá trị thặng dư - hòn đá tảng trong học thuyết kinh tế Mácxít.
- C.Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu
lịch sử xã hội, bắt đầu các phạn trù kinh tế, vạch rõ sự tác động qua lại giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cơ sở của sự phát triển lịch sử xã
hội, các quy luật kinh tế chi phối sự vận động của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, chỉ ra quan hệ giữa người với người ẩn giấu đằng sau quan
hệ giữa vật với vật trong sản xuất hàng hoá nói chung và trong tư bản chủ
nghĩa nói riêng.
- Nhờ phân biệt được sức lao động và lao động trong sản xuất hàng
hoá, đặc biệt là tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá (lao động
cụ thể và lao động trừu tượng). C.Mác đã giải đáp được nhiều bế bắt trong
các học thuyết của trường phái kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh (thí
dụ: vì sao trao đổi theo đúng giá trị mà vẫn thu được giá trị thặng dư), từ đó
C.Mác hoàn thiện lý luận giá trị, tìm ra nguồn gốc và bản chất của tiền tệ,
đưa đến phát hiện về giá trị thặng dư, vạch rõ cơ chế bóc lột tư bản chủ
nghĩa và những hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư trên bề mặt cuộc
sống như: lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức,
địa tô tư bản chủ nghĩa.
Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ những bản chất, nguồn gốc
của những yếu tố bên trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là yếu tố quyết
định, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Đó chính là lợi nhuận.
3