Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Tốc độ tiềm năng nitrat hoá (PNR) như một công cụ để thông báo độc tính trong đất bị ô
MIỄN PHÍ
Số trang
6
Kích thước
271.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1677

Tài liệu Tốc độ tiềm năng nitrat hoá (PNR) như một công cụ để thông báo độc tính trong đất bị ô

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TỐC ĐỘ TIỀM NĂNG NITRAT HOÁ (PNR) NHƯ MỘT CÔNG CỤ

ĐỂ THÔNG BÁO ĐỘC TÍNH TRONG ĐẤT BỊ Ô NHIỄM KIM LOẠI

Lê Thị Thuỷ

I. GIỚI THIỆU

Nitrat hóa là sự thay đổi của NH4

+

thành NO2

và sau đó thành NO3

. Sự nitrat

hoá được thực hiện bởi nhóm vi sinh vật

đặc biệt, đó là itrosomonas ssp, để oxy

hoá thành NO2

và itrobacter ssp oxy hoá

thành NO3

. Sự nitrat hoá là một quá trình

bị ảnh hưởng của những kim loại trong đất.

Ví dụ, bón Zn thấp 100 mgZn/kg sẽ giảm tỷ

lệ nitrat hoá ban đầu khoảng 65% trong đất

không được cải tạo.

Vì cảm ứng của chúng với sự ô nhiễm

kim loại và có vai trò chính trong chu trình

nitơ, nên sự nitrat hoá là một quá trình có thể

được sử dụng trong sự đánh giá nguy hại của

chất hoá học trong đất. ''Tiềm năng nitrat

hoá'' được sử dụng phổ biến cho sự nitrat

hoá trong đất ở những nồng độ chất bão hoà,

đó là sự nitrat hoá đã được quan sát ngay sau

khi bổ sung NH4

+

. Sự tập trung nồng độ

nitrat trong đất thường được đo sau quá trình

ủ, có thể thay đổi từ một vài giờ tới 50 ngày.

Bài báo này nói về việc sử dụng tốc độ

tiềm năng nitrat hoá (PNR) đối với thông

báo độ độc trong đất bị ô nhiễm. PNR

được đo trong các chuỗi rộng của đất

không bị ô nhiễm và đất thí nghiệm bị ô

nhiễm ở điều kiện bình thường bao gồm

những đất được cho vào phòng thí nghiệm

với muối Zn và đất bị ô nhiễm ngoài đồng

ruộng (sự ô nhiễm hỗn hợp kim loại). Khả

năng thay đổi của PNR trong đất không bị

ô nhiễm đã liên quan đến những tính chất

đất và mối quan hệ này được sử dụng để

xác định PNR của đất bị ô nhiễm để chỉ ra

độ độc.

II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

1. Lấy mẫu đất và xử lý

Hai nhóm đất gồm 27 mẫu đất không ô

nhiễm và 15 mẫu đất bị ô nhiễm bởi các

dạng hoạt động nung chảy (đất đồng ruộng

bị ô nhiễm). Đất không bị ô nhiễm được lấy

ở Bỉ vào tháng 8/1997 (mẫu số 1 - 4) hoặc

tháng 8/1998 (mẫu số 5 - 27).

Tất cả mẫu đất đã được làm khô không

khí và nghiền (2 mm) sau đó được trữ ít

nhất cho 1 tháng trước khi thí nghiệm PNR.

Muối kim loại đã được bón vào với tỷ lệ

300, 600 và 3000 mgZn/kg trọng lượng

khô. Đất đối chứng chỉ được làm ướt với

nước loại ion và đã xử lý xa hơn tương tự

như kim loại được cho vào đất.

2. Phương pháp phân tích

Thành phần cơ giới đất được xác định

bằng phương pháp pypet sau khi tiền xử lý

mẫu đất và lọc cát. pH đất được đo trong

CaCl2 0,01M với tỷ lệ đất/dung dịch là

1/2,5 sau khi để cân bằng qua đêm. Khả

năng trao đổi cation (CEC) được đo bằng

việc sử dụng thiourea bạc như chỉ thị cation

trong độ đệm NH4OAC 0,1M với pH 7,0.

Tổng số cácbon được đo bằng sự cháy khô.

Nồng độ kim loại trong đất đã được đo sau

khi công phá bằng ngọn lửa quang phổ hấp

phụ nguyên tử (FAAS). Tất cả các tính chất

đất được thể hiện trên một trọng lượng khô

cơ bản 1050C (bảng 1 và 3).

3. Tốc độ nitrat hoá

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!