Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Múa rối nước Việt Nam, một di sản văn hoá độc đáo pdf
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Múa rối nước Việt Nam, một di sản
văn hoá độc đáo
Múa rối nước là một sáng tạo văn hoá độc đáo của cư dân trồng lúa nước vùng châu thổ Sông
Hồng. Ngày chào đời của di sản văn hoá truyền thống dân tộc lâu đời này còn nằm trong huyền
sử. Nhưng ít nhất bia đá Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Đọi (Hà Nam) cũng ghi lại cho chúng ta
biết năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 đời vua Lý Thần Tông (1072- 1128), trò rối nước đã có mặt
trên Sông Hồng trước điện báu Linh Quang.
Lần theo truyền thuyết mà phán đoán có thể con "rồng bay" trên thuyền vua Lý Thái Tổ cập bến
Sông Hồng khi rời Kinh Đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra nơi "rồng chầu, hổ phục" để bốn phương
sum họp năm 1010 đã gợi ta nhớ đến "Thiên Sứ Rùa Vàng" đã giúp An Dương Vương xây dựng
thành ốc và trở lại nhận thanh gươm vua Lê Thái Tổ trao trả trên hồ Lục Thuỷ. Ngày nay cả hai
vẫn còn chưa thoả sức vẫy vùng trong mọi buổi trình diễn Rối Nước dân gian chuyên nghiệp,
cùng với con Lân, con Phượng trên sân khấu trong và ngoài nước.
Dùng nước làm sân khấu cho quân rối hoạt động là một đặc điểm độc đáo của nghệ thuật Rối
Nước. Nước không chỉ là nơi nhân vật làm trò, đóng kịch mà còn là yếu tố cộng sinh, cộng
hưởng, cộng minh. Nước vừa cản trở, vừa hỗ trợ, phối hợp. Trên "chiếc gương lỏng" này, những
gì là khô cứng, nghèo nàn đều trở nên lung linh, mềm mại, uyển chuyển, duyên dáng, phong
phú, biến hoá, kỳ ảo. Nước giấu trong lòng mọi bí ẩn của trò rối. Nhân vật thoắt ẩn, thoắt hiện
cùng với con bóng của mình điệp trùng trên sóng nước. Những tiếng trống, tiếng pháo "chói tai",
âm vang qua nước và khoảng không thoáng rộng cũng trở nên dịu dàng, dễ nghe hơn.
Múa Rối Nước là nghệ thuật của hội hè làng xóm, là sáng tạo bí truyền của từng phường, từng
hội, từng nghệ nhân - chứa đựng và lưu giữ nhiều hoạt động xã hội, nhiều truyền thống dân gian,
nhiều kỹ thuật nhân dân thô sơ, nhiều nghệ thuật và sinh hoạt tinh thần vật chất của nhân dân
trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Sân khấu múa rối nước trình bày những cảnh đời thường
ngày, những sinh hoạt dung dị đến ngạc nhiên. Nó cắt nghĩa rõ ràng khả năng và tài năng của
một dân tộc sinh sống bằng nghề trồng cây lúa nước. Này đây: cha cầy, mẹ cấy, em bé chăn
trâu, anh chị quăng chài, chăn vịt, thả cá, cả làng vui hội vui hè, đấu vật, rước thánh, rước thần,
hát chèo, hát tuồng, đánh đu, đua thuyền, thi bơi, múa lân, múa rồng, múa tiên, đua ngựa, đấu
kiếm... tính hoành tráng, vĩ đại của dân tộc, của lịch sử đất nước như được thu gọn trong sân
khấu nhỏ bé này.
Người sáng tạo và duy trì nghệ thuật múa rối nước từ hàng nghìn năm nay là người làm ruộng,
sống với nước từ khi còn trong bụng mẹ, gắn bó với nước chặt chẽ, ân tình "sống ngâm da, chết
ngâm xương". Ngâm bùn lội nước là cuộc sống thường ngày. Biểu diễn rối nước với họ là niềm
thích thú được tham gia sáng tạo. Nghệ nhân rối nước đều là người đứng tuối, đã lăn lộn với
đồng nước, với con trâu cái cầy. Trò rối nước vốn không xuất phát từ nghệ thuật ngôn từ nên lời
ca giọng hát chỉ làm phụ trợ. Việc làm rối nước chỉ là chơi "trò văn nghệ" lý tưởng say mê và tự
hào của họ.
Múa rối nước là một sinh hoạt vǎn hoá xóm làng, được bà con trân trọng, quí mến, nuôi dưỡng,
giữ gìn và phát triển. Họ luôn dành cho các hoạt động của phường mọi sự giúp đỡ, từ nắm lạt,
sợi thừng, cây tre, tấm ván, lá cót, mảnh phên... để dựng buồng trò, đến cây sung tạc quân, cái
sào điều khiển, chiếc thúng chuyên chở... khi biểu diễn. Ngoài ra, tuỳ theo khả năng những
người có chữ nghĩa, có tay nghề thủ công... còn tham gia vào sáng tác lời giáo, chế tác quân
máy, quyên góp tiền bạc, mua sắm trang thiết bị... do đó có phường số thành viên đông tới bảy
tám chục người trong khi lượng người biểu diễn cần thiết thường chỉ đến hai chục người là tối