Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu Gốm thời đại Hùng Vương ppt
MIỄN PHÍ
Số trang
2
Kích thước
55.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1641

Tài liệu Gốm thời đại Hùng Vương ppt

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Gốm thời đại Hùng Vương

Phần lớn các dụng cụ gốm đã xuất hiện cách ngày nay khoảng sáu, bảy nghìn năm. Các nhà

khảo cổ gọi thời gian đó là thời kỳ đồ đá mới. Còn các nhà sử học gọi đó là giai đoạn công xã thị

tộc. Nhưng đến thời đại đồng thau (cách đây khoảng bốn, năm nghìn năm), dụng cụ gốm mang

nhiều tên mới, chẳng hạn có nồi miệng loe vai tròn đáy tròn, nồi miệng loe vai tròn đáy bằng, nồi

đáy bằng vai có gờ cao, nồi miệng loe gãy vai có góc,... có vò miệng loe, vò vai gãy có tai, vò có

chân, vò đáy lồi, vò đáy bằng,... Có các loại cốc chân cao, bát chân cao, bát chân thấp, bình

miệng loe hình lẵng hoa, v.v... Tiến thêm một bước, gốm thời kỳ này có thêm bộ mặt mới là loại

đồ đựng có nắp đậy để bảo quản ngũ cốc, chống loài gặm nhấm.

Về tạo dáng, gốm văn hóa Phùng Nguyên dáng thanh, thành mỏng và thường phát triển chiều

cao; gồm Đồng Đậu dáng lùn do phần thân được mở rộng. Nếu như trong nền văn hóa Gò Mun

có loại nồi miệng gãy loa bằng, vò vai gãy có tai thì trong nền văn hóa Đông Sơn có những loại

hình đơn giản hơn, không có xu hướng tạo thành góc gãy nữa.

Nhìn chung, hình dạng gốm thời đại đồng thau đẹp hơn, vững chắc và khỏe hơn so với gốm thời

đại đồ đá mới.

Trong thời đại đồ đá mới, ông cha ta chưa biết dùng bàn xoay để nặn gốm như trong thời đại

đồng thau. Phương pháp dùng bàn xoay để làm gốm đóng vai trò chủ yếu trong thời đại đồng

thau. Đó là một cải tiến về kỹ thuật rất quan trọng của ông cha ta trong quá trình lao động sản

xuất. Khi con người biết dùng bàn xoay thì chẳng những năng suất lao động tăng nhanh mà

phẩm chất đồ gốm cũng tốt hơn, đẹp hơn, độ dày mỏng thành gốm đều nhau. Ưu điểm nổi bật

của bàn xoay là có thể tạo ra những đồ gốm có kích thước lớn nhưng thành gốm rất mỏng.

Chất liệu gốm trong thời đại đồng thau không thuần nhất, có nơi dùng đất sét pha cát hạt to, có

nơi pha cát hạt nhỏ, lại có nơi pha bã thực vật. Tuy vậy, pha chất độn thế nào đó để khi nặn xong

đem phơi gốm không bị nứt, đem nung gốm không bị méo mó biến dạng và khi nung xong gốm

được rắn, bền; pha thế nào để mặt gốm không thô mà mịn. Mịn là một tiêu chuẩn đẹp của gốm.

Muốn đạt những điều kiện pha trộn trên, ông cha ta phải trải qua một quá trình lao động sáng

tạo, dày công tích lũy kinh nghiệm.

Nhìn chung, màu sắc gốm thời đại đồng thau khá phong phú: gốm màu trắng mốc, gốm màu

vàng, vàng nhạt, gốm màu đỏ nâu, đỏ nhạt và màu đen, v.v... Thậm chí, ngay một dụng cụ gốm

cũng có nhiều màu, có chỗ màu đỏ nâu, có chỗ màu xám đen. Màu sắc của gốm phụ thuộc vào

chất độn, cách nung và còn do độ nung quyết định nữa. Ngoài ra, con người đã sử dụng một thứ

bột màu xoa hoặc rắc lên mặt gốm còn ướt để tạo ra màu sắc vừa ý họ. Gốm Phùng Nguyên có

xương màu đen, mặt gốm hoặc màu đỏ hoặc màu đen, gốm Đông Sơn khoác "chiếc áo" hoặc

hồng nhạt hoặc xám tro. Còn gốm Gò Mun vẫn giữ cái vẻ mộc mạc tự nhiên của đất.

Hầu hết gốm thời đại đồng thau đều được nung với mức độ khác nhau. Gốm Phùng Nguyên độ

nung thấp hơn gốm Đồng Đậu; gốm Đông Sơn độ nhiệt nung cao hơn gốm Gò Mun. Tuy vậy, độ

nhiệt nung gốm ở thời đại đồng thau không vượt quá 900oC.

Nói đến gốm không thể không nói đến hoa văn. Vì nó là một tiêu chuẩn về cái đẹp, là dấu ấn

quan trọng để phân biệt gốm của nền văn hóa này và gốm của nền văn hóa kia. Bằng một chiếc

que, cũng có thể là cọng rơm, cọng cỏ, người xưa vạch trên mặt gốm những nét cong uyển

chuyển, mềm mại, những đường chìm sắc sảo. Tất cả những đường nét đó phối hợp với nhau

một cách hài hòa, sinh động.

Người nghệ sĩ gốm, vốn ưa cái đẹp, giàu óc tưởng tượng đã trang trí trên cổ, miệng, thân gốm,

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!