Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu ĐỒ GỐM CỔ docx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
HÌNH TƯỢNG CON NGỰA TRÊN ĐỒ GỐM CỔ
VIỆT NAM
Gốm cổ Việt Nam rất phong phú, đa dạng không chỉ bởi hình dáng, màu men mà còn bởi các đồ
án hoạ văn trang trí.
Những đồ gốm vẽ hình chim, cá, thú thường là những phẩm vật mang tính nghệ thuật, có giá trị
kinh tế cao, và dường như nó được sản xuất phục vụ cho tầng lớp trên của xã hội đương thời
hay là để xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Trong vô số đồ gốm hoa lam và đồ gốm vẽ màu
của Việt Nam thế kỷ 15 được tìm thấy trên con tàu đắm dưới lòng đại dương ở gần đảo Cù Lao
Chàm (Hội An) năm 1997-2000, có khá nhiều loại gốm trang trí vẽ hình chim, thú. Trong đó đáng
lưu ý nhất là những đồ gốm vẽ hình con ngựa. Ngựa được vẽ tưng bừng và sống động trên
những chiếc Kendi (loạI bình rượu có vòi hình bầu vú), trên những vò rượu lớn hay trên bình tỳ
bà và các loại đĩa lớn. Những hình ngựa này được diễn tả trong nhiều tư thế khác nhau: đang
phi nước đại hay đang bay trong làn mây xanh hoặc đang rong ruổi trên chặng đường dài cùng
những ông quan đội mũ cánh chuồn... Trên nhiều đồ gốm cao cấp khác, chúng ta cũng bắt gặp
hình ảnh người cưỡi ngựa, phía sau có người hầu. Trên một vò rượu sành lớn, mà hiện nay
đang được coi là phẩm vật cao quý của Thổ tù Đinh Công Kỷ, vị quan lang cai quản xứ Mường
Động ở vào thời Lê (thế kỷ 17) cũng chạm khắc cảnh quan quân cưỡi ngựa rất sinh động.
Những đồ gốm trang trí, hình ngựa thường được xem là những đồ vật quý, vì hình dáng của nó
thường rất đẹp. Hơn nữa trong thời kỳ cổ đại, con ngựa là đề tài rất được thị trường ưa chuộng.
Người ta thích mua những đồ vật trang trí đẹp, nhưng mang tính văn hoá và hàm chứa những
giá trị tư tưởng. Ngựa là con vật như vậy.
Con ngựa, Trung Quốc gọi là Mã, Nhật Bản gọi là Uma. Ấn Độ, tên Phạn của nó là Asu có nghĩa
là "mau lẹ", còn tên Ariăng của nó là Asuba có nghĩa là "chạy". Trong cuộc sống đời thường,
ngựa là con vật kéo xe hoặc cưỡi, dùng trong chiến trận; săn bắn và du hành, có nơi dùng trong
lao động nông nghiệp. Trong quan niệm cổ xưa, ngựa là con vật có bản tính mau lẹ, hăng hái,
được xếp dưới nguyên lý Dương của tự nhiên, và được coi là biểu trưng cho yếu tố Lửa. Tốc độ
của ngựa được so sánh với sự di chuyển của Mặt Trời. Chính vì đặc trưng này mà người ta
dùng biểu tượng ngựa để tượng trưng cho Mặt Trời. Có nơi, ngựa là vật hiến tế trong tín ngưỡng
thờ thần Mặt Trời.
Trong các sử thi Ấn Độ đều thấy nói nhiều đến tín ngưỡng thờ cúng Mặt Trời, tục này sau đã lan
truyền sang châu Âu và châu Á. Sự mau lẹ của con ngựa cùng với sức mạnh và năng lực có thể
đi được chặng đường rất xa của nó khiến cho người ta gán cho nó những tên gọi như Gío Tây,
Chân Mau, Tia Chớp, Thiên Lý Mã, Phi Mã…Phi Mã là con ngựa Ấn Độ tên là Assa Batanan, nó
là con “ngựa quý, thân trắng tuyền và đầu màu đen, có sức mạnh kỳ lạ, bay trong không trung”.
Vì đặc tính này, ở Ấn Độ và nhiều nước khác, người ta đã thể hiện hình ảnh ngựa trong nghệ
thuật với những đôi cánh như thiên thần, chẳng hạn như hình chạm khắc Budda Gaya trong các
điện thờ Hán ở bên Trung Quốc. Người Phương Tây quan niệm rằng ngựa có cánh xuất phát từ
con ngựa Pôgase có cánh của thần thoại HyLạp. Trên đồ gốm cổ Việt Nam cũng trang trí những
hình ngựa có cánh. Những con ngựa này được diễn tả trong tư thế đang bay trong không trung.
Như thế, con ngựa trong nghệ thuật gốm Việt Nam cũng hoá thân vào huyền thoại, và ít nhiều nó
đã mang màu sắc tôn giáo như con ngựa trong văn hoá Ấn Độ hay văn hoá Trung Quốc.
Cư dân Hồi giáo ở Đông Nam Á cũng có tục thờ ngựa, họ coi ngựa là con vật linh thiêng. Có lẽ vì
tín ngưỡng này mà đồ gốm vẽ ngựa của Việt Nam rất được cư dân Hồi ưa chộng. Theo một số
tài liệu nước ngoài, đồ gốm Việt Nam thế kỷ 14 và 15 không những đã xâm nhập vào đời sống
sinh hoạt cộng đồng cư dân HồI, mà còn được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ có tính cách