Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu CHUYÊN ĐỀ 3: HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG doc
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
CHUYÊN ĐỀ 3:
HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG
MỞ ĐẦU
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng nhằm từng bước
hội nhập với khu vực và quốc tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể,
đặc biệt trong lĩnh vực quản lý dự án và đấu thầu lựa chọn các nhà thầu trong
hoạt động xây dựng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vấn đề hợp đồng và thanh quyết
toán đang còn khoảng cách khá xa so với khu vực và quốc tế nếu không nói là
tụt hậu đang gây nhiều trở ngại trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay.
Để tháo gỡ những vướng mắc trở ngại trong lĩnh vực quản lý chi phí, hợp
đồng và thanh quyết toán các dự án đầu tư xây dựng. Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây
dựng và Thông tư số 06/2007/TT-BXD ngày 25/7/2007 của Bộ Xây dựng
hướng dẫn về hợp đồng trong hoạt động xây dựng; có thể nhận định đây là một
bước đổi mới có tính quyết định nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập sâu với khu
vực và quốc tế và quản lý dự án đầu tư xây dựng. Tuy nhiên để các chính sách
cơ chế quan trọng mang tính quyết định này đạt được hiệu quả đòi hỏi các chủ
thể có liên quan trong đó các cơ quan quản lý nhà nước các cấp (bao gồm cả các
cấp ngân sách nhà nước) các chủ thể trực tiếp trong các dự án đầu tư xây dựng
đó là chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn và các nhà thầu phải đổi mới tư duy quản lý
đã được thực hiện trong pháp luật cũng như việc nắm vững các nội dung mang
tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực này.
2
Sau đây là một số vấn đề cần quan tâm:
1. Cơ sở pháp luật cao nhất của hợp đồng trong hoạt động xây dựng là
Bộ Luật Dân sự và Luật Xây Dựng. Hợp đồng trong hoạt động xây dựng là hợp
đồng dân sự. Theo điều 388 Bộ Luật Dân sự “ Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
hai hay nhiều bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền , nghĩa vụ của
các bên”. Trong hợp đồng sự thỏa thuận là quan trọng nhất, vì vậy Điều 402 Bộ
Luật Dân sự đã ghi “ Thỏa thuận được hiểu lá sự thống nhất giữa các bên về
việc thực hiện hay không thực hiện một việc cụ thể. Muốn thống nhất, các bên
phải có cơ hội bày tỏ ý chí, các ý chí ấy phải trùng khớp, thống nhất về một số
nội dung nhất định, được hiểu đó là nội dung của hoạt động ”.
Sở dĩ phải nêu lại nguyên tắc pháp lý quan trọng này là bởi lẽ trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng các dự án sử dụng vốn nhà nước ( chiếm trên 50 % tổng vốn
đầu tư toàn xã hội hàng năm) luôn vi pham nguyên tắc này đó là sự bất bình
đẳng trong quan hệ hợp đồng giữa Bên giao thầu và Bên nhận thầu và trên tất cả
trong nhiều trường hợp quyền và nghĩa vụ các bên lại bị “vô hiệu” bởi một tổ
chức thứ ba: Cơ quan được giao nhiệm vụ cấp phát cho vay và tanh toán. Chính
vì lẽ đó cần được thực thi một số nguyên tắc pháp lý quan trọng tiếp theo.
3
2. Các cơ quan cấp phát, cho vay và thanh toán không chịu trách nhiệm
về xác nhận khối lượng và chi phí một khi các bên trong hợp đồng đã thực hiện
đầy đủ quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Về nguyên
tắc pháp lý đúng là như vậy nhưng lâu nay trong thực tế chúng ta đã ngộ nhận
nguyên tắc này mà lẽ ra về Pháp lý Chủ đầu tư phải là người chịu trách nhiêm
trước hết về tiến độ, chất lượng và chi phí đầu tư xây dựng. ( Luật xây dựng , các
Nghị định 12/2005/N Đ- CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án
đầu tư xây dựng, Nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/01/2009 của Chính phủ về
quản lý chất lượng công trình xây dựng, Nghị định 99/2007/N Đ- CP); các Tổ
chức tư vấn, cung ứng vật tư, thiết bị và thi công xây dựng chịu trách nhiệm trước
Chủ đầu tư và trước pháp luật những thỏa thuận ( gồm quyền và nghĩa vụ) đã
được ghi trong hợp đồng “ Các tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng được
giải quyết trên cơ sở hợp đồng đã ký kết có hiệu lực pháp luật; Các tranh chấp
chử được thỏa thuận trong hợp đồng thì giải quyết trên cơ sở quyết định của
pháp luật liên quan” ( Thông tư 06/2007/TT-BXD); Nếu các văn bản hướng dẫn
về hợp đồng và thanh toán không làm rõ nguyên tắc này và phải chỉ đạo triển
khai triệt để trong thực tế thì không thể khắc phục được tình trạng lạm quyền, cửa
quyền, trong thực tế quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước hiện nay.
4
3. Chủ đầu tư các tổ chức tư vấn và các nhà thầu được quyền lựa chọn
hình thức hợp đồng phù hợp với tính chất cụ thể của công việc hoặc gói thầu.
Trong thực tế hiện nay, việc áp dụng hình thức hợp đồng theo giá trọn gói 1 cách
tràn lan đang là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ách tăc trong quá
trình thanh toán, quyết toán các dự án đầu tư xây dựng trong phạm vi cả nước
kèm theo các hậu quả khôn lường như chất lượng công trình kém, tiến độ thi
công bị kéo dài... ảnh hưởng nghiewm trọng đến hiệu quả kinh tế - xã hội các dự
án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước. Cần được hiểu là chúng ta đang tồn
tại trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động không những trong nước mà
mang tính phạm vi toàn cầu vì vậy trong lĩnh vực hợp đồng và thanh toán cũng
không thể xa rời thực tế đó.
Có thể khẳng định hình thức hợp đồng trọn gói hay hợp đồng giá theo trọn gói
là một hình thức hợp đồng tiên tiến nó làm giảm nhẹ gánh nặng quản lý cho Chủ
đầu tư, tăng cường trách nhiệm thực hiện hợp đồng cho các nhà thầu, nhưng do
chúng ta thiếu những hướng dẫn đầy đủ về chuyên môn cũng như pháp lý nên đã
dẫn đến những hậu quả tiêu cực như đã nêu trên. Thực chất hợp đồng trọn gói
đang được sử dụng hiện nay là gì?
5
Đó là chi phí của công việc hay gói thầu dựa trên khối lượng tính toán từ thiết
kế bản vẽ thi công do Chủ đầu tư thuê các tổ chức tư vấn lập và Chủ đầu tư phê
duyệt thường bị tính thiếu (mặc dù đã thẩm định) đơn giá được áp dụng là bộ đơn
giá các địa phương (Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung Ương) ban hành thường
không cập nhật hoặc cập nhật không kịp thời đặc biệt là giá cả vật liệu xây dựng
thường mang tính chủ quan của các cơ quan quản lý thông qua phương pháp
thông báo giá làm căn cứ đề Chủ đầu tư ký kết hoạt động chỉ định thầu hoặc làm
căn cứ xác định giá gói thầu để xét thầu trong trường hợp đấu thầu; Khi thanh
toán hoặc quyết toán công trình cơ quan cấp phát, cho vay lại thực thi nguyên tắc
(Luật bất thành văn) cái gì nhà thầu làm thêm thì không thanh toán, cá gì nhà thầu
không làm thì trừ đi? Nói tóm lại toàn bộ rủi ro đều do nhà thầu chịu. Để khắc
phục triệt để tình trạng này cần thực hiện các giải pháp sau: Chỉ thực hiện hình
thức hợp đồng giá trọn gói trong các trường hợp sau:
6
a. Đối với những công việc hoặc gói thầu có đủ điều kiện xác định và khối
lượng cụ thể trong xây dựng đó là các công tác xây, trát, lát, ốp, đổ bê tông... với
điều kiện khi thương thảo hợp đồng các nhà thầu được quyền xem xét bổ sung
các khối lượng nếu hồ sơ thiết kế dự toán tính thừa hoặc thiếu trước khi ký hợp
đồng trong trường hợp chỉ định thầu, Chủ đầu tư cần sử dụng tư vấn khi xem xét
các đề nghị của nhà thầu ( chấp nhận hay không chấp nhận). Về đơn giá hoặc các
khoản chi phí tính theo tỷ lệ % cần được các bên xem xét theo điều kiện cụ thể
của công trình (Nghị định 99/2007/ NĐ- CP và Thông tư 05/2007/BXD ngày
25/7/2007 của Bộ Xây dựng Hướng dẫn lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng
công trình) dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên trong đó có tính đến những
biến động của thị trường đối với các yếu tố đầu vào của đơn giá.
7
b. Đối với trường hợp đấu thầu cũng được áp dụng hợp đồng trọn gói đối với
các công việc trên nhưng trong hồ sơ mời thầu bảng tiên lượng được coi là tạm
tính để các nhà thầu áp đơn giá dự thầu; Các khối lượng do Nhà thầu phát hiện
sai sót thừa hoặc thiếu dựa trên Bản vẽ thiết kế thi công trong Hồ sơ mời thầu cần
được lập thành dự toán riêng để Chủ đầu tư khi đánh giá hồ sơ dự thầu cần xem
xét (chấp nhận hoặc không chấp nhận), nếu được chấp nhận cần được quy đỏi vầ
cùng mặt bằng khối lượng đối với tất cả các hồ sơ dự thầu khác để xác định giá
đánh giá. Về đơn giá dự thầu của nhà thầu phải chấp nhận các rủi ro (nếu có) tức
là đã bao gồm cả các yếu tố đầu vào (vật liệu, nhân công, máy thi công và các
yếu tố liên quan khác) do biến động của thị trường (nếu các bên xét thấy không
cần ghi thêm điều kiện điều chỉnh nào); Khi thanh toán không yêu cầu xác nhận
khối lượng chi tiết đã thực hiện. Cần lưu ý khi xác định giá dự toán làm căn cứ để
xác định giá gói thầu phải được tính đúng, tính đủ theo yêu cầu khách quan của
thị trường nhue trong quy định của Nghị định 99/2007/NĐ-CP của Chính Phủ và
Thông tư 05/2007/TT-BXD của Bộ Xây Dựng. Với các điều kiện như trên việc
áp dụng hợp đồng trọn gói là hoàn toàn khả thi, phù hợp với thực tế Việt Nam và
thông lệ quốc tế. Một điểm cần lưu ý là khi áp dụng hợp đồng trọn gói các phát
sinh ngoài hợp đồng vẫn được Chủ đầu tư hoặc cấp coa thẩm quyền xem xét giải
quyết hoặc những nguyên tắc điều chỉnh do những nguyên nhân bất khả kháng
không do nhà thầu gây ra đồng thời được 2 bên thỏa thuận điều chỉnh ghi trong
hợp đồng (như giá cả vật tư, nhân công... có những biến động). 8
c. Một trường hợp khác có thể áp dụng hợp đồng trọn gói cho các công việc
khối lượng khó xác định như kinh nghiệm thế giới thường áp dụng cho công tác
điện nước, hoặc các công việc thu dọn vệ sinh mặt bằng... thường được áp dụng
hợp đồng trọn gói khi mà các nhà thầu có kinh nghiệm thực hiện, kể cả chấp nhận
rủi ro (nếu có). Ngoài ra các hợp đồng tư vấn (Lập dự án, thiết kế, giám sát thi
công...) khi giá gói thầu được xác định theo tỷ lệ % chi phí (Văn bản 1751/VP -
BXD) cũng có thể áp dụng hình thức hợp đồng trọn gói hoặc xác định giá gói
thầu bằng phương pháp lập dự toán (tháng/ người) cũng có thể áp dụng hình thức
hợp đồng này.
9