Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu CHĂN NUÔI GIA CẦM docx
PREMIUM
Số trang
272
Kích thước
7.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1846

Tài liệu CHĂN NUÔI GIA CẦM docx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết



CHĂN NUÔI GIA CẦM

1

CHƢƠNG 1

CHĂN NUÔI GIA CẦM- THÀNH TỰU VÀ XU HƢỚNG

PHÁT TRIỂN

Trong vài chục năm lại đây, ngành chăn nuôi gia cầm trên thế

giới đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Sản phẩm trứng và thịt gia cầm

không ngừng tăng lên. Có được thành tựu đó là do việc ứng dụng

các tiến bộ kỹ thuật về di truyền giống, dinh dưỡng, công nghệ sinh

học, các thành tựu về cơ giới hoá, điện khí hoá trong chăn nuôi gia

cầm nhất là chăn nuôi gia cầm công nghiệp. Mặt khác, xuất phát từ

việc hiểu biết sâu sắc và khai thác triệt để các đặc điểm sinh học vốn

có của gia cầm nên đã đưa lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trước

khi nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật cụ thể về chăn nuôi gia cầm cần

làm quen với các khái niệm cơ bản.

Gia cầm là gì?

Gia cầm là tập hợp tất cả những vật nuôi hay săn bắn được

nhằm đưa lại lợi ích kinh tế, mà các vật nuôi này có nguồn gốc từ

lớp chim (aves). Như vậy, gia cầm bao gồm gà, vịt, ngan, ngỗng, gà

tây, chim cút, đà điểu, bồ câu …

Tập hợp tất cả các hiểu biết, các kiến thức của nhân loại về

gia cầm và các giải pháp nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản

phẩm ở gia cầm hình thành một ngành khoa học gọi là chăn nuôi gia

cầm.

Khoa học về chăn nuôi gia cầm và ngành chăn nuôi gia cầm

hiện nay đã phát triển ở mức độ cao và trở thành chăn nuôi gia cầm

công nghiệp. Chăn nuôi gia cầm công nghiệp với các đặc trưng là:

Quy mô lớn, sản phẩm tiêu chuẩn hoá, sản xuất theo quy trình công

nghệ cao, sản phẩm mang tính hàng hoá...

Chăn nuôi gia cầm bao gồm nhiều lĩnh vực. Hai lĩnh vực sản

xuất chính là sản xuất thịt và trứng. Các lĩnh vực khác có liên quan

và đôi khi nó cũng trở thành ngành kinh doanh độc lập đó là sản xuất

2

gia cầm giống (gia cầm con, gia cầm hậu bị); sản xuất thức ăn cho

gia cầm; sản xuất, cung ứng các thiết bị phục vụ chăn nuôi gia cầm;

chế biến các sản phẩm và thị trường tiêu thụ các sản phẩm gia cầm.

Chăn nuôi gia cầm phát triển đòi hỏi tất cả các lĩnh vực sản xuất liên

quan này phát triển theo.

Mối quan hệ giữa các lĩnh vực sản xuất trong chăn nuôi gia

cầm được trình bày trên hình 1.1.

Trứng và thịt gia cầm sản xuất ra chủ yếu là để làm thực

phẩm. Trứng còn được dùng trong các ngành chế biến thực phẩm

khác như sản xuất bánh kẹo... Nó còn được dùng trong sản xuất mỹ

phẩm, chế vác-xin. Lông được sử dụng làm đệm, chăn, gối. Gia cầm

còn là đối tượng thích hợp cho các nghiên cứu di truyền, dinh

dưỡng, sinh lý và các quy trình sản xuất mới...vì gia cầm có vòng

đời ngắn, tốc độ sinh sản nhanh, vòng quay các thế hệ nhanh, giá

thành nuôi dưỡng thấp.

THIẾT BỊ PHỤC VỤ CHĂN NUÔI GIA CẦM

Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong chăn nuôi gia cầm

GIỐNG

ẤP

Trứng

CON

SẢN

XUẤT

THỊT

SẢN

XUẤT

TRỨNG

CHẾ BIẾN SẢN PHẨM

GIA CẦM

THỊ TRƯỜNG

3

1.1.Thành tựu của ngành chăn nuôi gia cầm

1.1.1.Chăn nuôi gia cầm thế giới

Trước đây, chăn nuôi gia cầm chỉ là một ngành sản xuất phụ.

Nuôi gia cầm chỉ để có thêm ít thức ăn hàng ngày, có thêm chút ít

tiền và trong nhiều trường hợp nuôi gia cầm chỉ mang mục đích tiêu

khiển (gà nuôi làm cảnh xem chơi, gà nuôi để tham gia lễ hội...).

Trong vài ba chục năm trở lại đây, chăn nuôi gia cầm đã có bước

phát triển nhảy vọt. Chăn nuôi gia cầm đã chuyển từ phương thức

chăn nuôi ―nông nghiệp‖ sang phương thức chăn nuôi ―công

nghiệp‖. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được nghiên cứu, ứng

dụng nhanh chóng trong chăn nuôi gia cầm. Kết quả của quá trình

này là các đơn vị chăn nuôi gia cầm quy mô lớn thay thế dần cho các

cơ sở chăn nuôi nhỏ - một sự chuyển đổi cơ bản trên tất cả các lĩnh

vực của ngành sản xuất chăn nuôi gia cầm. Nhờ việc ứng dụng các

tiến bộ khoa học kỹ thuật về di truyền, giống, dinh dưỡng, công nghệ

sản xuất, máy ấp trứng... mà chăn gia cầm thế giới đã phát triển

nhanh cả về số lượng đầu con, sản lượng trứng, thịt, chất lượng sản

phẩm, giá thành trong sản xuất sản phẩm gia cầm giảm đi, chất dinh

dưỡng cung cấp cho con người với giá rẻ ngày càng tăng lên nhờ vào

nguồn trứng và thịt gia cầm.

Trong vài thập niên trở lại đây, ngành chăn nuôi gia cầm trên

thế giới phát triển mạnh về cả số lượng và chất lượng. Đó là kết quả

của việc áp dụng những thành tựu di truyền chọn giống kết hợp với

các biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng có cơ sở khoa học. Năm 1999

(theo FAO), tổng đàn gia cầm trên thế giới khoảng 10 tỷ con, trong

đó 96,7% gà, 1,8% vịt, còn lại là các gia cầm khác. Tổng đàn gà trên

thế giới cũng tăng theo thời gian, cụ thể là năm 2000:14.831,9 triệu

con; năm 2001: 15.526,26 triệu con; năm 2002: 16.373,16 triệu con;

năm 2004:16.605,13 triệu con .

Ở các nước đang phát triển số đầu con gia cầm tăng nhanh từ

năm 2000 - 2003 (bảng 1.1).

4

Bảng 1.1: Số lƣợng gia cầm ở các nƣớc đang phát triển

(Đơn vị tính: 1.000.000. con)

Tên nƣớc

Năm 2000

Năm

2001

Năm

2002

Năm

2003

Trung Quốc 3.623,01 3.769,49 4.098,91 3.980,55

Ấn Độ 568,00 658,00 737,00 842,00

Indonesia 859,50 960,16 1.218,41 1.290,10

Lào 13,09 14,06 15,27 20,00

Malaysia 123,65 149,59 160,84 170,00

Myanmar 44,76 55,08 51,13 60,00

Philipin 115,19 115,61 125,73 128,19

Thái Lan 224,73 232,71 235,23 277,11

(Nguồn: FAO,2004)

Sản xuất trứng và thịt gia cầm ngày càng tăng lên, nhất là ở

các nước có ngành công nghiệp phát triển.

Theo các số liệu thống kê của FAO thì sản lượng trứng gia

cầm của thế giới từ 401,5 tỉ năm 1975 tăng lên 552 tỉ năm 1985.

Tính trong cả giai đoạn từ 1965-1981, sản lượng trứng sản xuất ra

của thế giới tăng 64,79%; trung bình mỗi năm tăng 5,05%. Cũng

trong thời gian đó thì sản xuất thịt gia cầm tăng 2,47 lần và đạt 28,7

triệu tấn năm 1985.

Sản lượng trứng gia cầm trên thế giới năm 2003 đạt 55,8 triệu

tấn; Châu Á là khu vực đạt sản lượng cao nhất 33 triệu tấn (chiếm

59,14%), tiếp đến là Châu Âu 9,8 triệu tấn (chiếm17,56%), khu vực

Bắc Mỹ 7,9 triệu tấn, khu vực Trung Mỹ 2,9 triệu tấn; Châu Phi 2,1

triệu tấn và thấp nhất là Châu Đại Dương 0,2 triệu tấn. Châu Á có

mức tăng trưởng cao nhất, đặc biệt Trung Quốc luôn là nước đứng

đầu thế giới về sản lượng trứng. Năm 2003 đạt 22,332 triệu tấn,

chiếm 40,02% sản lượng trứng của toàn thế giới.

5

Trên thế giới có 7 nước đạt sản lượng trứng gia cầm trên 1

triệu tấn: Trung Quốc 22,332 triệu tấn; Mỹ 5,123 triệu tấn; Nhật Bản

2,5 triệu tấn; Ấn Độ 2,200 triệu tấn; Nga 2,04 triệu tấn; Mexico

1,882 triệu tấn; Brazin 1,55 triệu tấn. Trong khi đó Việt Nam là

0,2345 triệu tấn trứng gà đứng thứ 30 trên thế giới.

Sản xuất trứng trên thế giới không ngừng tăng lên, nhưng tốc

độ tăng không đồng đều giữa các vùng trên thế giới. Còn có những

vùng riêng biệt, thậm chí cả châu lục (Châu Phi) mà ở đó sản phẩm

gia cầm là chưa đáng kể.

Sự tăng sản xuất trứng gia cầm trên thế giới chủ yếu là tăng

sản lượng trứng trung bình của một gia cầm mái. Trung bình ở Hà

Lan, Mỹ, Nhật, sản lượng trứng trung bình của một gà mái là 250-

280, hoặc 300, trên 300 quả mỗi năm. Triển vọng là sản lượng trứng

nhận được từ một gà mái đẻ/ năm sẽ đạt đến 300 quả trên phạm vi

toàn thế giới.

Sản xuất trứng tăng làm tăng sức tiêu thụ trứng trên một

người dân. Mức tiêu thụ trứng gia cầm/ người/ năm bình quân thế

giới năm 2002 là 8,4 kg; cao nhất là Nhật Bản 19,1kg; thấp nhất là

Tandikistan 0,5 kg và ở Việt Nam là 2,6 kg (FAO). Ở các nước Nga,

Đức, Ý... mức tiêu thụ trứng trên đầu người sẽ tăng cao. Một bước

nhảy vọt đáng kể là Trung Quốc, không chỉ thoả mãn cho nhu cầu

của dân số nước này hiện nay, mà trong tương lai sẽ cung cấp cho

mỗi người dân 13 kg trứng, con số đó gấp 4 lần năm 1975. Mức tiêu

thụ trứng ở một số nước phát triển lên tới 400 quả và mức tiêu thụ

thịt gia cầm lên đến 34 kg/người/năm (Israel), mức trung bình ở các

nước phát triển là 250-280 quả trứng và 15-20 kg thịt/người/năm.

Dự báo trong những năm tới, sản xuất trứng tăng lên ở nhiều

vùng, nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt tăng nhanh ở các nước có

nền công nghiệp phát triển, ở các nước có mật độ dân số cao và một

số nước Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ...).

6

Sản lựợng thịt gia cầm trên thế giới năm 2003 đạt 75,8 triệu

tấn; tăng 1,4 triệu tấn so với năm 2002 (tăng 1,88%) và tăng 27,7

triệu tấn so với năm 1998 (tăng 57,50%).Thịt các loại gia cầm khác

nhau cũng có những biến động khác nhau (bảng 1.2).

Thịt gà: Châu Mỹ sản xuất tới 4,92%, châu Á 31,54%, Châu

Âu 15,5% so với toàn thế giới. Thịt gà tây: chủ yếu được sản xuất ở

Châu Mỹ 55,7%, Châu Âu 38,7% so với toàn thế giới. Ở Châu Á,

thịt thủy cầm chiếm 86,2%.

Năm 2003 có 11 nước trên thế giới sản xuất trên 1 triệu tấn

thịt gia cầm, đó là Mỹ 14,855 triệu tấn; Trung Quốc 9,518 triệu tấn;

Brazin 7,78 triệu tấn; Mexico 2,157 triệu tấn; Ấn Độ 1,440 triệu tấn;

Liên hiệp Anh 1,294 triệu tấn; Thái Lan 1,227 triệu tấn; Nhật Bản

1,218 triệu tấn; Pháp 1,130 triệu tấn; Nga 1,033 triệu tấn; Tây Ban

Nha 1,020 triệu tấn. Trong khi đó sản lượng thịt gia cầm của Việt

Nam năm 2003 là 0,372 triệu tấn, đứng thứ 43 trên thế giới.

Bảng 1.2: Sản lƣợng thịt gia cầm của các khu vực năm 2003

(Đơn vị tính: triệu tấn)

Châu lục

Thịt gà

Thịt gà

tây

Thịt vịt

Thịt

ngỗng

Thế giới 65,00 5,35 3,31 2,13

Châu Á 20,50 0,16 2,70 1,99

Châu Âu 10,10 2,07 0,45 0,08

Châu Mỹ 30,50 2,98 0,08 0,10

Châu Phi 3,10 --- 0,06 0,06

Châu

Đại Dương

0,80 --- --- ---

(Nguồn: FAO,2004; Ghi chú: --- ít hơn 50 ngàn tấn)

Thành tựu trong sản xuất thịt gia cầm là rất to lớn (sản xuất

gà thịt broiler). Khối lượng giết thịt lý tưởng đạt được chỉ sau 8 tuần,

6 tuần, thậm chí là ở 4 tuần tuổi. Kết quả lớn hơn nữa là xét trong

7

mối quan hệ giữa thể trọng và chi phí thức ăn cho 1 kg thể trọng

thấp. Ví dụ như hãng Marsel (Đức): thể trọng gà đạt 2,90 kg ở 56

ngày tuổi, chi phí 2,17 kg thức ăn cho 1 kg thể trọng. Hãng Scotlan:

thể trọng gà đạt 2,8 kg ở 42 ngày tuổi.

Với các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái

Lan... sản lượng thịt gia cầm cũng phát triển nhanh qua các năm

(bảng 1.3).

Bảng 1.3: Sản lƣợng thịt gia cầm sản xuất ở các nƣớc

đang phát triển

(Đơn vị tính: 1.000 tấn)

Tên nớc Năm 2000 Năm2001 Năm 2003

Trung Quốc 9.025 9.310 9.518

Ấn Độ 575 595 1.440

Indonesia 804 807 952

Lào 10 11 14

Malaysia 770 780 765

Myanmar 176 196 256

Philippin 322 333 635

Thái Lan 1.117 1.200 1.227

Năm 2002 mức tiêu thụ thịt gia cầm bình quân theo đầu

người/ năm của thế giới 11,7 kg, cao nhất là Israel 71,9kg, Mông Cổ

là nước có mức tiêu thụ thịt gia cầm bình quân đầu ngời thấp nhất

0,1kg; còn ở Việt Nam 5,6kg.

Theo ước tính của FAO, năm 2005 sản lượng thịt gia cầm

trên thế giới sẽ đạt mức 88 triệu tấn. Đây là mức độ tăng trưởng cao

nhất so với mức tăng của các loại thịt. Giá thịt gà trên thế giới có xu

hướng giảm, và thấp hơn các loại thịt khác. Năm 1990, giá thịt gà

chỉ bằng 29,2% so với giá thịt lợn và bằng 31,76% so với giá thịt của

đại gia súc.

8

Các tiến bộ khoa học kỹ thuật được nghiên cứu và ứng dụng

một cách rộng rãi, nhanh chóng trong chăn nuôi gia cầm. Các phư￾ơng thức chăn nuôi gia cầm cũng thay đổi, từ phương thức chăn nuôi

nông nghiệp chuyển sang phương thức chăn nuôi theo qui mô công

nghiệp với số lượng lớn, quản lý chặt chẽ và chăm sóc tốt. Dự báo

đầu năm 2010 sản xuất thịt và trứng tăng lên ở nhiều khu vực trên

thế giới, đặc biệt là các nước có ngành công nghiệp phát triển và các

nước có dân số cao. Mức tiêu thụ thịt gà trên thế giới dự kiến sẽ tăng

cao hơn.

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhu cầu tiêu dùng của

con người về nguồn protein động vật ngày càng cao. Để đáp ứng nhu

cầu của thị trường, hàng loạt công nghệ mới được ứng dụng nhằm

tăng khả năng sản xuất thịt và trứng của gia cầm. Việc ứng dụng các

công nghệ mới và công nghệ sinh học để cải tiến bản chất di truyền

nhằm tạo ra những giống gia cầm mới có phẩm chất trứng - thịt

thơm ngon.

Sự tăng nhanh các sản phẩm gia cầm trên thế giới là do các

nguyên nhân sau:

*Tạo ra và ứng dụng nhanh các giống và các dòng gia cầm lai

có năng suất cao (sản lượng trứng cao và tốc độ sinh trưởng nhanh).

*Nhờ việc nghiên cứu và áp dụng các hệ thống chăn nuôi hợp

lý; công thức thức ăn hợp lý; quy trình công nghệ thích hợp đối với

từng đối tượng gia cầm; điện khí hoá và tự động hoá việc kiểm tra

tiểu khí hậu trong chuồng nuôi...

*Cung cấp các thiết bị hoàn chỉnh phục vụ chăn nuôi gia cầm

công nghiệp: Máy ấp trứng công suất cao, tỷ lệ ấp nở cao; máy đếm

gia cầm con - trong 1 giờ chuẩn bị và đếm được 25.000 con; máy soi

trứng trong máy ấp – 70.000 quả/giờ; máy chủng vác-xin cho gia

cầm 1 ngày tuổi; thiết bị sấy khô và làm sạch phân gia cầm; thiết bị,

dụng cụ phục vụ thụ tinh nhân tạo gia cầm...

9

1.1.2.Chăn nuôi gia cầm ở các nƣớc nhiệt đới ẩm

Chăn nuôi gia cầm ở các nước nhiệt đới có những nét khác

biệt với tình hình chung của thế giới. Quá trình thương mại hoá chăn

nuôi gia cầm mới bắt đầu phát triển trong thời gian gần đây. Ở các

nước này, trong một chừng mực nào đó, có sự trái ngược với các

nước đã nói trên. Chăn nuôi gia cầm công nghiệp trong tình trạng

thiếu vốn, bao gồm nhiều đơn vị sản xuất nhỏ, lao động trông chờ

chủ yếu vào lao động thủ công... vì vậy ngành chăn nuôi gia cầm

diễn ra ở trình độ thấp, giá thành sản phẩm gia cầm còn cao. Đặc

biệt bệnh tật, rủi ro sảy ra thường xuyên với đàn gia cầm. Dịch cúm

gia cầm H5N1 trong các năm 2003 đến nay gây hậu quả nghiêm

trọng và tổn thất lớn về kinh tế không chỉ cho các nước ở khu vực

này, mà còn ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội và sức khoẻ con người

trên phạm vi toàn thế giới. Các yếu tố đó dẫn đến mức tiêu thụ gia

cầm ở các nước này còn thấp. Ví dụ: Ước lượng vài năm lại đây ở

Nigiêria, mức tiêu thụ trứng chỉ khoảng 20-25 quả/người/năm, trong

khi đó ở Châu Âu và Châu Mỹ khoảng 250-300 quả/người/năm.

Chăn nuôi gia cầm ở các nước nhiệt đới là đơn điệu (không

đa dạng), chỉ nhấn mạnh sản xuất chính là trứng và chỉ một đối

tượng gia cầm là gà nhà. Trong khi đó, về hiệu quả kinh tế (lợi

nhuận) và về mặt dinh dưỡng thì chăn nuôi các loại gia cầm khác sẽ

tốt hơn. Ví dụ: Có nhiều giống vịt sinh trưởng nhanh, sức đề kháng

với bệnh tật tốt hơn cả gà, có thể cho tới 300 trứng/năm (vịt

khakicampbell) nhưng chưa được nuôi rộng rãi. Thế giới nuôi gà

theo 3 hướng sản xuất: hướng thịt, hướng trứng và hướng kiêm dụng

(vừa trứng vừa thịt) còn các nước ở vùng nhiệt đới thì hướng nuôi

thịt ít được đặt ra.

1.1.3.Chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam

Ở Việt Nam trước đây, chăn nuôi gia cầm mang tính tự cấp tự

túc, chưa có ý nghĩa như là một ngành sản xuất hàng hoá. Ngành

10

chăn nuôi gà công nghiệp có thể lấy mốc từ năm 1974, khi mà hai

trung tâm giống Quốc gia được xây dựng đó là trung tâm giống gà

hướng trứng Ba Vì (Sơn Tây) và trung tâm giống gà thịt Tam Đảo

(Vĩnh Phúc). Đàn gà giống hướng thịt và hướng trứng được nhập

vào nước ta từ Cuba cũng từ năm 1974 với 2 vạn trứng giống của

các dòng thuần.

Gà dòng thuần hướng trứng giống Leghorn, nhập về 2 dòng là

X và Y. Ban đầu nuôi ở Ba Vì, xí nghiệp gà Lương Mỹ (Hà Tây), xí

nghiệp gà Minh Tâm (Sông Bé) và các trại gà thương phẩm khác

trong nước.

Gà dòng thuần hướng thịt giống Plymouth Rock, nhập về 3

dòng là 799; 488; 433. Ban đầu nuôi ở trung tâm gà thịt Tam Đảo,

sau đó phát triển nuôi nhiều ở Tam Đảo, xí nghiệp gà Tam Dương

(Vĩnh Phúc), Trại gà Hồng Sanh (Sông Bé) và nhiều cơ sở nuôi khác

trong cả nước.

Ngoài 2 trung tâm giống gà cấp Quốc gia còn phải kể đến các

cơ sở lớn đó là: Trung tâm nghiên cứu gia cầm thuộc liên hiệp các xí

nghiệp gia cầm Trung Ương, Hà Đông (Sơn Tây), các trại giống

Cẩm Bình (Hải Hưng), Trại Gò Vấp (TP.Hồ Chí Minh), Trại gia

cầm Thụy Phương (Viện chăn nuôi quốc gia), Trung tâm giống vịt

Đại Xuyên (Hà Tây)...

Trong những năm 1985-1995, chăn nuôi gia cầm nhất là gà

công nghiệp phát triển với tốc độ nhanh. Tổng đàn gà công nghiệp

năm 1985 là 9,2 triệu con. Sản lượng trứng trung bình trong khu vực

quốc doanh là 167 quả/gà mái/năm; ở khu vực gia đình sản lượng

trứng còn thấp hơn. Đàn gà công nghiệp năm 1991 chiếm 5-7% tổng

đàn gia cầm thì năm 1994 đã tăng lên 25%. Năm 1994 đã đạt 5 vạn

tấn thịt gà. Sản xuất trứng cũng tăng lên đáng kể. Năm 1991, toàn

ngành sản xuất được 8,5 triệu trứng giống, tiêu thụ chỉ được 40-45%

(đưa vào ấp sản xuất gà con giống). Năm 1994 đã đạt 18,5 triệu,

11

trong đó 95% được ấp cho ra gà con giống. Tính lãi ròng trong sản

xuất giống là 20-40%, trong sản xuất thương phẩm là 12-13%.

Các cơ sở sản xuất giống gà đều có hướng phát triển tốt.

Trung tâm Ba Vì năm 1993 sản xuất 1,6 triệu trứng giống, tăng 5-

10% so với năm 1992. Năm 1994 đã sản xuất 2,2 triệu trứng, trong

đó 53 nghìn trứng giống gà thịt (70% cung cấp cho các tỉnh phía

Nam). Trung tâm Tam Đảo 9 tháng thu 650.000 trứng, cả năm sản

xuất được 850.000 trứng. Trại Lương Mỹ sản xuất 2 triệu trứng

giống, 406.000 gà giống 1 ngày tuổi, 46,8 tấn thịt gà...

Ngoài các giống gà nói trên, từ năm 1985 đến nay nhập thêm

nhiều giống mới như Hybro, Hubbard White, Hubbard Golden

Cormet, Isabrown..., các dòng bố mẹ lai tạo gà lai đẻ trứng nâu:

Goldline, Moravia,...

Từ năm 1996, cùng với sự đổi mới kinh tế đất nước, ngành

chăn nuôi gia cầm có những bước tiến nhảy vọt. Nhiều giống gia

cầm có lông màu, năng suất trứng và thịt khá được nhập vào nước ta,

thích hợp với chăn nuôi (thả vườn) trong gia đình như gà Tam

Hoàng, Kabir, Lương Phượng, gà Ai Cập; các giống vịt siêu thịt

(Super meat), siêu trứng (Khakicampbell, Cv.2000). Không chỉ gà

mà nhiều đối tượng gia cầm khác cũng được nhạp nội và khuyến

khích phát triển như bồ câu Pháp ( Titan, Mimas), ngan Pháp (dòng

R31, R51, R71...), chim cút, đà điểu...Tuy vậy dịch cúm gia cầm

trong các năm 2003-2005 và ngay cả hiện tại đã và đang gây tổn thất

lớn cho ngành chăn nuôi nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Sản phẩm gia cầm tăng lên rõ rệt qua các năm (bảng 4). Năm

2000, sản lượng thịt 286,513 nghìn tấn, sản lượng trứng 3,708 tỷ

quả. Năm 2003, sản lượng thịt 372,720 nghìn tấn và trứng 4,854 tỷ

quả. Đến năm 2004, có 332,000 nghìn tấn thịt và 4,260 tỷ quả trứng.

Như vậy đàn gia cầm bắt đầu giảm từ năm 2003 do dịch cúm gia

cầm.

12

Ngành chăn nuôi gia cầm nước ta đang phát triển, tuy vậy sản

phẩm chăn nuôi gia cầm bình quân/ đầu người/ năm còn thấp. Năm

1995 có 17,75kg tổng số thịt hơi các loại chiếm 100%, trong đó có

thịt gia cầm hơi 2,64kg chiếm 14,8%; trứng 37,9 quả. Năm 1997 có

19,59kg tổng số thịt hơi các loại chiếm 100%, trong đó có thịt gia

cầm hơi 2,95kg chiếm 15,1%; trứng 37,9 quả. Năm 2003, sản lượng

trứng gia cầm bình quân/ đầu người/ năm là 45,0 quả, còn thịt gia

cầm 3,36kg chiếm 15,0% trong tổng số thịt hơi các loại là 22,40kg

(Lê Bá Lịch,2003).

Bảng 1.4: Sản phẩm gia cầm qua các năm

Năm

Tổng đàn

gia cầm

(triệu con)

Đàn gà

(triệu con)

Thịt gia

cầm (Tấn)

Trứng

(tỷ quả)

1980 61,522 48,391 - 1,103200

1985 87,803 64,817 - 1,472000

1990 103,820 80,184 167,900 1,896400

1995 140,004 107,958 197,084 2,825025

2000 198,046 147,050 286,513 3,708605

2001 276,000 218,037 322,602 4,161844

2002 297,900 233,300 362,300 4,722000

2003 323,300 254,100 372,720 4,852000

2004 277,100 218,200 316,400 3,939000

2005 279,900 219,900 321,900 3,948000

Nguồn: Cục Chăn nuôi Bộ NN-PTNT năm 2005

Ngành chăn nuôi gia cầm đã tiếp cận một số công nghệ tiên

tiến của thế giới về giống, thức ăn, thuốc thú y và quy trình chăm

sóc nuôi dưỡng. Ở nước ta cũng đã hình thành nhiều cơ sở chăn nuôi

gia cầm quy mô lớn. Theo ước tính, đến nay cả nước có trên 100.000

hộ chăn nuôi theo hình thức trang trại tại 8 vùng sinh thái khác nhau,

13

thay thế dần kiểu chăn nuôi tự cấp, tự túc, tận dụng sản phẩm phụ

của trồng trọt như trước đây bằng kiểu chăn nuôi hàng hóa quy mô

vừa và một số ít trang trại có quy mô chăn nuôi hàng hóa lớn đã xuất

hiện.

Cơ cấu giống gia cầm 80% là các giống địa phương, chỉ có

20% là các giống cao sản nhập nội, và những giống gia cầm cao sản

này được nuôi chủ yếu theo phương thức chăn nuôi công nghiệp.

Phân bố đàn gia cầm: Đàn gà chủ yếu tập trung tại các tỉnh

phiá Bắc (từ khu bốn cũ trở ra) 75%, còn 25% tập trung ở phía Nam.

Đàn vịt chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long (55%), còn

lại phân bố ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung.

Ngành chăn nuôi gia cầm trong những năm gần đây đạt được

những thành tựu to lớn, tuy vậy còn gặp không ít khó khăn. Ngành

chăn nuôi gia cầm nước ta chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán, chăn

nuôi hộ gia đình, tận dụng phụ phế phẩm nông nghiệp. Các trang trại

chăn nuôi gia cầm với quy mô vừa và lớn mặc dù đã hình thành tại

một số vùng sinh thái, song chiếm tỷ lệ chưa cao, thị trường tiêu thụ

sản phẩm chăn nuôi gia cầm còn khó khăn, cơ sở hạ tầng và dịch vụ

chăn nuôi nhìn chung còn thấp kém, hầu hết chưa đảm bảo quy trình

kỹ thuật. Nguy cơ dịch bệnh đối với đàn gia cầm và an toàn thực

phẩm cho người ngày càng nghiêm trọng. Năm 2004, một năm thật

sự khó khăn, người chăn nuôi phải đối phó với dịch cúm gia cầm,

nhưng ngành chăn nuôi vẫn đạt mức tăng trưởng 8%/năm với tổng

sản lượng thịt hơi 2,63 triệu tấn tăng 10,85% đưa mức bình quân thịt

hơi/người/năm đạt 31,5 kg.

Ngay từ cuối năm 2003 và quý I năm 2004, dịch cúm gia cầm

bùng phát trên diện rộng khắp 57 tỉnh thành, 38 triệu con gia cầm bị

tiêu hủy. Ngành chăn nuôi gia cầm thật sự lao đao. Sát cánh, chia sẻ

rủi ro với người chăn nuôi, Đảng và Nhà nước đã vào cuộc với nỗ

lực cao nhất nên đến hết tháng 3/2004 dịch cúm gia cầm cơ bản đã

14

được dập tắt. Hệ thống giống quốc gia được bảo vệ an toàn, sẳn sàng

cung cấp con giống để tái phát triển đàn gia cầm.

Định hướng sản xuất của đàn gà công nghiệp nước ta là: Nhà

nước quản lý và sản xuất con giống, nông dân nuôi thương phẩm và

sản xuất ra thịt, trứng, nhà nước mua lại và bao tiêu sản phẩm.

1.2. Định hƣớng phát triển của ngành chăn nuôi gia cầm

Ngành chăn nuôi gia cầm trong thời gian tới phát triển theo

định hướng sau đây:

1.2.1.Về giống

*Gia cầm hướng đẻ trứng

-Tập trung theo hướng tăng sản lượng trứng tính theo mái đầu

kỳ. Giữ nguyên hoặc giảm số đầu gia cầm mái. Khai thác trứng đến

75-78 tuần tuổi, sản lượng trứng đạt 290-315 quả/con/năm.

-Tăng hiệu quả sử dụng thức ăn đồng thời giảm khối lượng cơ

thể gà.

-Gà mái đạt 50% tỉ lệ đẻ ở lứa tuổi sớm hơn trước. Hàng loạt

các hãng gia cầm đã cố định thời gian đạt 50% tỉ lệ đẻ là 150-155

ngày (Lomann, Dekalb); nhưng ở một số hãng khác (Goto của Nhật,

Nicchic, Hailain của Mỹ) lại cố định thời gian này là 161-168 ngày.

-Giữ tỉ lệ đẻ cao (hơn 90%) trong vòng 9-15 tuần, có tỉ lệ đẻ

cao trong suốt thời gian sử dụng (76-78 tuần tuổi) và không thấp hơn

60% ở cuối giai đoạn khai thác.

-Chất lượng trứng tốt, tỉ lệ trứng dập vỡ không quá 5%.

-Tỉ lệ nuôi sống cao, tỉ lệ thụ tinh và tỷ lệ ấp nở cao.

- Chọn tạo các giống/dòng gà lai đẻ trứng vỏ màu thay cho gà

đẻ trứng vỏ trắng nhằm tăng tỷ lệ gà lai đẻ trứng vỏ màu trong cơ

cấu đàn gà hướng trứng.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!