Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu BẢN ĐỒ HỌC pdf
PREMIUM
Số trang
218
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1256

Tài liệu BẢN ĐỒ HỌC pdf

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

BẢN ĐỒ HỌC

2

LỜI NÓI ĐẦU

Trong mọi thời đại, bản đồ luôn giữ một vai trò quan trọng trong tất cả mọi

lĩnh vực của cuộc sống. Vì vậy, việc học tập và nghiên cứu lĩnh vực khoa học kỹ

thuật về bản đồ là hết sức cần thiết. Nhằm phù hợp với chương trình giảng dạy

mới, phục vụ học tập và nghiên cứu, nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trong

các trường đại học, chúng tôi đã biên soạn cuốn giáo trình “Bản đồ học”.

Giáo trình gồm 7 chương với các nội dung chính:

Chương 1: Tổng quan về bản đồ học

Chương 2: Lý thuyết chung về phép chiếu bản đồ

Chương 3: Tổ chức thành lập và tổng quát hoá bản đồ

Chương 4: Phân loại các bản đồ và tập bản đồ

Chương 5: Các phương pháp thành lập, hiệu chỉnh bản đồ

Chương 6: Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ

Chương 7: Sử dụng bản đồ

Giáo trình này nhằm phục vụ sinh viên ngành bản đồ và các ngành học

khác có liên quan, quan tâm tới công nghệ sản xuất bản đồ.

Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã cố gắng diễn đạt xúc tích, cập

nhật những thông tin mới, những thay đổi liên quan tới lĩnh vực bản đồ do Bộ

Tài nguyên và Môi trường ban hành. Song do thời gian và khả năng có hạn nên

cuốn sách vẫn không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự góp ý của

các đồng nghiệp và bạn đọc để cuốn sách này được hoàn chỉnh hơn trong đợt

tái bản lần sau.

Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

3

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢN ĐỒ HỌC.................................................. 5

1.1. Đối tượng và nhiệm vụ của bản đồ...................................................................... 5

1.2. Định nghĩa và tính chất bản đồ............................................................................ 7

1.3. Phân loại bản đồ .................................................................................................. 8

1.4. Các yếu tố của bản đồ.......................................................................................... 9

1.5. Lược sử phát triển của bản đồ học..................................................................... 10

1.6. Triển vọng phát triển của bản đồ học ................................................................ 21

1.7. Vai trò của bản đồ trong thực tiễn và khoa học ................................................. 22

CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHÉP CHIẾU BẢN ĐỒ................. 24

2.1. Lý thuyết chung về phép chiếu bản đồ .............................................................. 24

2.2. Phân loại phép chiếu bản đồ.............................................................................. 33

2.3. Phân mảnh và đánh số bản đồ địa hình.............................................................. 66

CHƯƠNG 3: TỔ CHỨC THÀNH LẬP VÀ TỔNG QUÁT HOÁ BẢN

ĐỒ…74

3.1. Công tác tổ chức thành lập bản đồ..................................................................... 74

3.2. Tổng quát hoá bản đồ........................................................................................ 79

CHƯƠNG 4: PHÂN LOẠI CÁC BẢN ĐỒ VÀ TẬP BẢN ĐỒ......................... 94

4.1. Các nguyên tắc phân loại bản đồ....................................................................... 94

4.2. Phân loại bản đồ theo tỷ lệ và lãnh thổ .............................................................. 96

4.3. Phân loại bản đồ theo nội dung.......................................................................... 97

4.4. Phân loại bản đồ theo mục đích sử dụng ......................................................... 100

4.5. Các kiểu bản đồ địa lý ..................................................................................... 102

4.6. Những khái niệm cơ bản về tập bản đồ ........................................................... 105

CHƯƠNG 5: CÁC PHƯƠNG PHÁP THÀNH LẬP HIỆU CHỈNH BẢN ĐỒ

ĐỊA HÌNH ............................................................................................................ 110

5.1. Bản đồ địa hình................................................................................................ 110

5.2. Bản đồ địa hình khái quát………………………………………………..

110

CHƯƠNG 6: THIẾT KẾ BIÊN TẬP VÀ THÀNH LẬP BẢN ĐỒ ................ 139

6.1. Cơ sở lý thuyết thiết kế, biên tập và thành lập bản đồ ..................................... 139

6.2. Thiết kế bản đồ................................................................................................ 148

6.3. Các công tác chuẩn bị và biên tập bản đồ........................................................ 166

6.4. Lý thuyết chung về thành lập bản đồ gốc ........................................................ 177

6.5. Các thiết bị kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất bản đồ ............................... 187

6.6. Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ địa lý chung.......................................... 190

6.7. Thiết kế biên tập và thành lập bản đồ chuyên đề............................................. 200

CHƯƠNG 7: SỬ DỤNG BẢN ĐỒ..................................................................... 211

7.1. Khái niệm chung ............................................................................................. 211

7.2. Các phương pháp xác định một số yếu tố trên bản đồ..................................... 211

7.3. Xác định một số chỉ tiêu hình thái................................................................... 213

7.4. Độ chính xác của bản đồ và độ chính xác kỹ thuật.......................................... 215

4

TÀI LIỆU THAM

KHẢO…………………………………………………..211

5

CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN VỀ BẢN ĐỒ HỌC

1.1. Đối tượng và nhiệm vụ của bản đồ

Bản đồ học là lĩnh vực khoa học kỹ thuật về bản đồ, về các tính chất,

phương pháp thành lập và sử dụng bản đồ.

Đối tượng nhận thức của bản đồ học là không gian cụ thể của các đối

tượng, hiện tượng thực tế khách quan và những biến đổi của chúng theo thời gian.

Bản đồ học bao gồm các vấn đề rộng lớn về bản chất và phương pháp

truyền đạt thể hiện các thông tin về tự nhiên và xã hội của bề mặt khu vực bản

đồ thể hiện. Rất nhiều ngành khoa học kỹ thuật có liên quan và cần sử dụng

bản đồ. Bản đồ rất cần cho sự phát triển kinh tế quốc dân, cho tìm kiếm và

quản lý tài nguyên, khoáng sản, cho thiết kế các công trình công, nông nghiệp,

cho quy hoạch, quản lý đất đai,...

Hiện nay bản đồ là tài liệu quan trọng để giải quyết các nhiệm vụ khoa

học kỹ thuật, là phương pháp thể hiện thông tin trong hệ thống thông tin địa lý

của mỗi khu vực và quốc gia.

Bản đồ học bao gồm nhiều bộ môn khoa học kỹ thuật có quan hệ chặt

chẽ với nhau, nhưng mỗi bộ môn lại có chức năng riêng:

- Cơ sở lý thuyết của bản đồ (bản đồ học đại cương): Nghiên cứu bản đồ

các loại, tính chất và các yếu tố của bản đồ, khả năng sử dụng các bản đồ trong

thực tế, lịch sử phát triển của bản đồ học.

- Toán bản đồ: Nghiên cứu các phương pháp chiếu bề mặt toán học (elipxôit

hoặc mặt cầu) của trái đất lên mặt phẳng, các tính chất, các phương pháp đánh giá và

lựa chọn các phép chiếu bản đồ và các yếu tố khác thuộc cơ sở toán học của bản đồ.

- Thiết kế và thành lập bản đồ: Đó là một trong những bộ môn quan

trọng nhất của bản đồ học. Nó nghiên cứu và xây dựng lý thuyết tổng quát hoá

bản đồ, công nghệ thiết kế bản đồ, các nguyên tắc biên tập và thành lập bản đồ

bằng phương pháp trong phòng.

6

- Trình bày bản đồ: Nghiên cứu các phương pháp và phương tiện trình

bày màu sắc và hình vẽ của các bản đồ, đồng thời nghiên cứu những vấn đề

thiết kế các ký hiệu quy ước.

- In bản đồ: Nghiên cứu các phương pháp chế in và in hàng loạt các bản đồ.

- Sử dụng bản đồ: Đó là bộ phận của bản đồ học, trong đó nghiên cứu

những phương hướng và phương pháp sử dụng các bản đồ và đánh giá độ tin

cậy, độ chính xác của các kết quả thu nhận từ bản đồ.

- Kinh tế và tổ chức sản xuất b¶n ®å: Môn học này nghiên cứu về các

mặt kinh tế và các biện pháp tổ chức hợp lý hoá sản xuất bản đồ.

- Tự động hoá sản xuất bản đồ: Nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu

khoa học kỹ thuật (điện tử - tin học, cơ khí hoá, điều khiển học,...) vào các công

đoạn sản xuất bản đồ.

Bản đồ học có liên quan chặt chẽ với nhiều bộ môn khoa học khác, đặc

biệt là với trắc địa cao cấp, trắc địa địa hình, thiên văn học, địa lý học. Những

mối quan hệ đó hầu hết là có tính chất hai chiều. Bản đồ học dùng các kết quả

nghiên cứu của các môn khoa học đó để biên soạn nội dung bản đồ hoặc làm cơ

sở toán học để thiết kế nội dung. Các khoa học khác dùng bản đồ và các

phương pháp bản đồ để giải quyết những vấn đề thực tế của mình.

Trắc địa cao cấp, thiên văn học và trọng lực học cung cấp cho bản đồ những

số liệu về hình dạng, kích thước trái đất, toạ độ các điểm của lưới khống chế đo đạc.

Trắc địa địa hình và trắc địa ảnh bằng các phương pháp đo vẽ khác nhau,

cung cấp cho bản đồ học những tài liệu bản đồ đầu tiên trên để nghiên cứu bề

mặt trái đất và là tài liệu gốc để xây dựng các bản đồ khác.

Địa lý học nghiên cứu bản chất của hiện tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội,

nguồn gốc của chúng, những mối quan hệ tương quan và sự phân bố của chúng

trên mặt đất. Đó chính là cơ sở phản ánh đúng đắn các đối tượng và các hiện

tượng trên bản đồ.

Ngoài ra, bản đồ học còn có mối liên hệ với nhiều môn khoa học khác

như địa chất, địa mạo, thổ nhưỡng, lịch sử,…

7

1.2. Định nghĩa và tính chất bản đồ

a. Định nghĩa

Bản đồ là sự biểu thị khái quát, thu nhỏ bề mặt trái đất hoặc bề mặt của

thiên thể khác trên mặt phẳng trong một phép chiếu xác định, nội dung của bản

đồ được biểu thị bằng hệ thống ký hiệu quy ước. Đó chính là định nghĩa chung

về bản đồ.

Mỗi bản đồ đều được xây dựng theo một quy luật toán học nhất định.

Quy luật toán học của bản đồ trước hết được biểu hiện ở tỷ lệ và phép chiếu của

nó.

Các đối tượng và hiện tượng (tức là nội dung của bản đồ) được biểu thị

theo một phương pháp lựa chọn và khái quát nhất định (tổng quát hoá bản đồ).

Tổng quát hoá bản đồ thì phụ thuộc vào mục đích của bản đồ, tỷ lệ bản đồ và

đặc điểm địa lý của lãnh thổ.

Các đối tượng và hiện tượng được biểu thị bằng ngôn ngữ của bản đồ -

đó là hệ thống các ký hiệu quy ước.

Cơ sở toán học của bản đồ, sự tổng quát hóa các yếu tố nội dung và sự thể

hiện các đối tượng và hiện tượng bằng các ký hiệu bản đồ - đó chính là ba đặc tính

cơ bản phân biệt giữa bản đồ với các hình thức khác biểu thị bề mặt trái đất.

b. Các tính chất cơ bản của bản đồ

Bản đồ có những tính chất cơ bản là: tính trực quan, tính đo được và thông tin.

a- Tính trực quan của bản đồ: Được biểu hiện ở chỗ là bản đồ cho ta khả

năng bao quát và tiếp thu nhanh chóng những yếu tố chủ yếu và quan trọng

nhất của nội dung bản đồ. Một trong những tính chất ưu việt của bản đồ là khả

năng bao quát, biến cái không nhìn thấy thành cái nhìn thấy được. Bản đồ tạo

ra mô hình trực quan của lãnh thổ, nó phản ánh các tri thức về các đối tượng

hoặc các hiện tượng được biểu thị. Bằng bản đồ, người sử dụng có thể tìm ra

đựơc những quy luật của sự phân bố các đối tượng và hiện tượng trên bề mặt

trái đất.

8

b- Tính đo được: Đó là tính chất quan trọng của bản đồ. Tính chất này có

liên quan chặt chẽ với cơ sở toán học của nó. Căn cứ vào tỷ lệ và phép chiếu của

bản đồ, căn cứ vào các thang bậc của các ký hiệu quy ước, người ta sử dụng bản

đồ có khả năng xác định được rất nhiều các trị số khác nhau như: toạ độ, biên độ,

độ dài, khoảng cách, diện tích, thể tích, góc, phương hướng và nhiều trị số khác.

Chính do có tinh chất này mà bản đồ được dùng làm cơ sở để xây dựng

các mô hình toán học của các hiện tượng địa lý và để giải quyết nhiều vấn đề

khoa học và thực tiễn sản xuất.

c- Tính thông tin của bản đồ: Đó là khả năng lưu trữ và truyền đạt cho

người đọc những tin tức khác nhau về các đối tượng và các hiện tượng.

1.3. Phân loại bản đồ

Để tiện lợi trong việc nghiên cứu, sử dụng và bảo quản các bản đồ thì cần

thiết phải tiến hành phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại khác nhau. Trong

đó, một số cách phân loại sau đây thường được sử dụng và cũng là quan trọng

nhất.

- Phân loại theo các đối tượng thể hiện: Các bản đồ được phân thành 2

nhóm: Các bản đồ địa lý và các bản đồ thiên văn.

- Phân loại theo nội dung: Bản đồ được phân thành 2 nhóm đó là: Các

bản đồ địa lý chung và các bản đồ chuyên đề.

Trong mỗi cách phân loại kể trên, tuỳ thuộc vào nhóm các bản đồ cụ thể

người ta còn có cách phân loại chi tiết:

- Phân loại theo tỷ lệ: Các bản đồ địa lý được chia thành ba loại: Tỷ lệ

lớn, tỷ lệ trung bình và tỷ lệ nhỏ.

- Phân loại theo mục đích sử dụng: Cho đến nay, theo mục đích sử dụng

chưa có sự phân loại chặt chẽ. Bởi vì đại đa số các bản đồ được sử dụng rộng

rãi cho nhiều mục đích rất khác nhau. Song đáng chú ý nhất theo mục đích sử

dụng có thể phân ra thành 2 nhóm, đó là: Các bản đồ sử dụng cho nhiều mục

đích và các bản đồ chuyên môn.

9

- Phân loại theo lãnh thổ: Các bản đồ được phân ra thành bản đồ thế

giới, các bản đồ bán cầu, các bản đồ châu lục, các bản đồ các nước, các bản đồ

các vùng, các bản đồ thành phố.

1.4. Các yếu tố của bản đồ

Để thành lập và sử dụng các bản đồ địa lý, không những phải hiểu rõ

những tính chất đặc điểm của nó, mà còn phải phân biệt được các yếu tố hợp

thành, hiểu rõ ý nghĩa, giá trị và tác dụng của từng yếu tố và mối liên hệ giữa

chúng. Mọi bản đồ đều bao gồm: Các yếu tố nội dung, cơ sở toán học, các yếu

tố hỗ trợ và bổ sung.

1. Các yếu tố nội dung của bản đồ:

Sự thể hiện nội dung bản đồ bằng các phương pháp biểu thị thông qua hệ

thống ký hiệu quy ước là bộ phận chủ yếu của bản đồ, bao gồm các thông tin về

các đối tượng và các hiện tượng được biểu đạt trên bản đồ: sự phân bố, các tính

chất, những mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian. Những thông tin

đó chính là nội dung của bản đồ. Ví dụ, các yếu tố nội dung bản đồ địa hình là:

thuỷ hệ, các điểm dân cư, dáng đất, lớp phủ thực vật, mạng lưới các đường giao

thông và thông tin, một số đối tượng kinh tế công nông nghiệp và văn hoá, sự

phân chia hành chính, chính trị. Các yếu tố nội dung của bản đồ chuyên đề thì

phụ thuộc vào đề tài cụ thể của nó.

Khi thể hiện nội dung bản đồ phải phân biệt nội dung chứa đựng trong

đó và hình thức truyền đạt nội dung thông qua hệ thống ký hiệu bản đồ.

2. Cơ sở toán học bản đồ:

Các quy luật hình học của sự biểu thị bản đồ phụ thuộc vào cơ sở toán

học của bản đồ, bao gồm tỷ lệ; phép chiếu và mạng lưới toạ độ được dựng

trong phép chiếu đó; mạng lưới khống chế trắc địa; sự bố cục của bản đồ.

Bản chất của phép chiếu bản đồ là sự phụ thuộc hàm số giữa toạ độ điểm

của bề mặt Elipxoit trái đất và hình chiếu của nó trên mặt phẳng. Hệ thống lưới

toạ độ là cơ sở của mọi bản đồ địa lý. Các công tác thành lập bản đồ bao giờ

10

cũng được bắt đầu từ việc dựng lưới toạ độ và khi sử dụng bản đồ thì mạng

lưới toạ độ chính là cơ sở tiến hành những đo đạc khác nhau trên bản đồ.

Mạng lưới các điểm trắc địa bảo đảm cho việc chuyển từ bề mặt tự nhiên

của mặt đất lên bề mặt elipxoit và đảm bảo cho việc xác định vị trí chính xác

của các yếu tố địa lý của bản đồ so với mạng lưới toạ độ, mạng lưới trắc địa

thường được thể hiện trên các bản đồ địa hình.

Ngoài ra, bố cục bản đồ bao gồm khung bản đồ, sự định hướng và bố trí

lãnh thổ bản đồ trong khung, sự phân mảnh đánh số bản đồ cũng là các yếu tố

cơ sở toán học của bản đồ.

3. Các yếu tố hỗ trợ bản đồ:

Ngoài các yếu tố nội dung và các yếu tố cơ sở toán học thì bản đồ còn

có yếu tố hỗ trợ bao gồm bảng chú giải, thước tỷ lệ và các đồ thị.

- Bảng chú giải là "chìa khoá" để người đọc tìm hiểu và khám phá nội

dung bản đồ. Bảng chú giải là bảng ký hiệu có kèm theo lời giải thích ngắn

gọn. Thước tỷ lệ và các đồ thị được sử dụng trong quá trình đo đạc trên bản đồ

để nhanh chóng xác định được các trị số cần thiết.

- Các yếu tố hỗ trợ còn thể hiện ở những khoảng trống bên ngoài hoặc

trong khung bản đồ bởi các bản đồ phụ, các biểu đồ, đồ thị, các lát cắt, các

bảng thống kê, v.v... nhằm mục đích bổ sung, làm sáng tỏ và làm phong phú

thêm về những phương diện nào đó của nội dung bản đồ.

Ngoài ra, bố cục bản đồ (bao gồm khung bản đồ, sự định hướng và sự bố trí

lãnh thổ bản đồ trong khung), sự phân chia các bản đồ có kích thước lớn thành các

mảnh và hệ thống đánh số các mảnh đó cũng là các yếu tố cơ sở toán học của bản

đồ.

1.5. Lược sử phát triển của bản đồ học

Bản đồ ra đời do nhu cầu của cuộc sống xã hội loài người và bản đồ đã

phản ánh thực tế khách quan của thiên nhiên và đời sống xã hội. Chính vì vậy

bản đồ là sản phẩm văn hoá quý giá nhất nhì của nền văn minh nhân loại.

11

Tìm hiểu lịch sử phát triển của bản đồ học là tìm hiểu quá trình phát triển

của các loại bản đồ, của công nghệ và phương pháp thành lập cũng như sự phát

triển của tư tưởng và lý luận của khoa học bản đồ. Tìm hiểu lịch sử bản đồ học là

giúp ta hiểu đúng nhiệm vụ và vị trí của bản đồ học hiện nay để định hướng tốt

hơn, chính xác hơn viễn cảnh phát triển của bộ môn khoa học này trong tương

lai.

Xã hội phát triển, nhu cầu ngày càng tăng của xã hội luôn là điều kiện

làm xuất hiện các bản đồ địa lý mới, làm đa dạng phong phú thêm các dạng,

loại bản đồ. Khi xuất hiện các chủ đề mới, kiểu loại mới bản đồ, đồng thời cũng

đặt ra những vấn đề mới về lý luận, cơ sở khoa học mới cho bản đồ học và nó

là điều kiện để hoàn thiện và phát triển các thể loại bản đồ.

Nghiên cứu sự phát triển của bản đồ học chúng ta được biết các thành

tựu khoa học cùng các tên tuổi của các nhà khoa học đã có nhiều cống hiến cho

sự phát triển của bản đồ học.

Lịch sử của bản đồ học có thể chia ra bốn thời kỳ gắn liền với lịch sử thế

giới. Đó là:

- Thời kỳ cổ đại

- Thời kỳ trung cổ.

- Thời kỳ cận đại.

- Thời kỳ hiện nay.

a. Bản đồ học thời cổ đại

Khi khai quật các công trình cổ đại, người ta tìm thấy các hình vẽ thô sơ

về hệ thống tưới tiêu, sơ đồ thành phố... ở Ấn Độ, Tây Á, Trung Đông, Trung

Quốc, Bắc Mỹ... Điều này đã khẳng định con người cổ xưa đã có những tri thức

bản đồ đáng kể.

Đóng góp đáng kể cho sự phát triển bản đồ học thời kỳ này là ở cổ Hy

Lạp. Họ đã biết về thiên văn học, toán học, biết hình dạng của trái đất và kích

thước của nó. Đặc biệt trên các bản vẽ họ đã dùng hệ thống toạ độ địa lý. Đó là

bước tiến quan trọng trong bản đồ học.

12

Vào đầu thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, theo lệnh của hoàng đế Ai Cập,

những người Ai Cập đã tổ chức một cuộc hành trình vòng quanh Libi (Libi là

tên gọi Châu Phi của người Ai Cập cổ đại). Nhà sử học Hêrôđốt đã viết về cuộc

hành trình đó, giúp cho con người mở rộng tầm mắt, hiểu biết về thế giới ngày

càng đầy đủ hơn và những kiến thức về địa lý, bản đồ ngày càng phong phú

hơn.

Những nhà bác học cổ đại như Arixtoten, Dikear, Êratoxphen đều quan

niệm rằng trái đất có dạng hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo hình tròn. Bởi

vì họ quan sát thiên nhiên và đều thấy những bằng chứng có dạng hình cầu của

trái đất. Ví dụ: Con tàu ra khơi khuất dần về phía chân trời, bóng tròn của quả

đất in trên mặt trăng ở những kỳ nguyệt thực, bầu trời có dạng hình chảo úp...

Từ kết quả quan sát thiên nhiên họ đã đi đến kết luận trái đất là hình cầu

và lần đầu tiên trong lịch sử loài người, vào năm 220 TCN, khi quan sát vị trí

mặt trời ở các thành phố khác nhau của Ai Cập, Êratoxphen đã xác định kích

thước trái đất với độ chính xác lạ thường (chu vi hình cầu trái đất là:39816 km

chỉ sai so với kết quả đo tính hiện đại chưa đầy 200 km). Ông cũng chính là

người đầu tiên đem đến cho bản đồ những đường thẳng góc với nhau. Đó là

mẫu hình biểu hiện các kinh vĩ tuyến trong phép chiếu giữ đều khoảng cách.

Ông đã đặt tên cho khoa học về trái đất và bản đồ là môn "Địa lý học".

Vào thế kỷ thứ I và thứ II nổi lên là K.Ptôlêmê ở thành phố Alêchxawngdri,

Ai Cập - nhà bản đồ học và cũng là nhà thiên văn học nổi tiếng nhất thời cổ... Ông

đã biết tất cả các công trình của Êratoxphen và Xtrâybôn. Ông đã nhìn thấy mục

đích chủ yếu của bản đồ học là để vẽ bản đồ trái đất và Địa lý là sự thể hiện

khoảng cách của tất cả các phần đã biết của trái đất trong mối quan hệ của nó.

Nó cho chúng ta khả năng nhìn bao quát cả trái đất trong một bức tranh cũng

như chúng ta có thể nhìn bao quát trực tiếp cả bầu trời sao quay trên đầu chúng

ta. Trong tác phẩm của mình, K.Ptôlêmê tiếp tục phát triển tư tưởng của tất cả

các bậc tiền bối và tiên đoán con đường phát triển chủ yếu của khoa học bản đồ

hàng trăm năm sau.

13

Tác phẩm nổi tiếng nhất của thời kỳ cổ đại là 8 tập địa lý học

(Geographie hyesis) của K.Ptôlêmê (Ptoléme) ở những năm 87-150 nhưng đến

tận thế kỷ 15 mới được dịch ra tiếng Latinh và in năm 1472.

Thời kỳ cổ La Mã, việc sử dụng bản đồ để đáp ứng nhu cầu của thực tế,

phục vụ hoạt động quân sự và hành chính nên bản đồ phổ biến là các bản đồ

đường sá La Mã ở dạng cuộn thành ống dài gần 7m, rộng khoảng 1/3 m rất thuận

tiện cho sử dụng và di chuyển. Những người đo đạc đất đai ở La Mã cổ đại cũng

đã biết đo đạc chia đất đai thành làng mạc, đường Sá và quy hoạch ruộng đất.

Một trung tâm khoa học lớn ở thời kỳ cổ đại là Alexanđri ở Bắc Ai Cập

với những viện bảo tàng và thư viện cổ là minh chứng cho biết nhà địa lý học

lỗi lạc Eratoxfen là người đầu tiên xác định phương pháp đo góc kinh tuyến để

xác định kích thước trái đất, ông đã xác định gần đúng chiều dài của kinh tuyến

và coi nhiệm vụ của địa lý là phải vẽ hình dạng của Trái đất.

Thời kỳ cổ đại, Trung Quốc đã là một trung tâm văn minh của thế giới kể

cả lĩnh vực bản đồ học.

Theo các tài liệu của Tây Âu và các sử sách truyền lại thì thường gặp các

bản đồ, địa đồ với trình độ thành lập khá cao và chính xác.

Điều đáng chú ý ở các bản đồ này là ngoài các hình vẽ phối cảnh thông

thường người ta đã biết sử dụng các ký hiệu quy ước, ghi chú cho bản đồ. Nổi

bật nhất của Trung Quốc ở thế kỷ thứ III là nhà bản đồ xuất sắc Bùi Tú (223-

271). Người đã thành lập ra tập Atlát gồm 18 bản đồ vùng, trong đó ghi rõ

phương pháp biên vẽ bản đồ, chọn tỷ lệ, sử dụng lưới ô vuông để phân bố các

đối tượng bản đồ, để xác định độ dài đường cong, định hướng đúng cho các con

sông, dãy núi. Ông còn lập ra tấm bản đồ tổng thể Trung Quốc tỷ lệ khoảng

1/1.800.000.

b. Bản đồ học thời trung cổ (Thế kỷ V đến XVII)

Đây là thời kỳ đình đốn của bản đồ học do sự thống trị của nhà thờ.

Những công trình khoa học của các nhà bác học cổ đã bị phá huỷ bởi những

14

ngọn lửa của những người cuồng tín. Những công trình của Eratôxphen,

K.Ptôlêmê..v.v.. cùng chung số phận. Một số nhà bác học cổ như Brunô bị

thiêu sống, một số người khác bị cầm tù như Galilê. Tuy vậy, nhiều nhà bác

học thời bấy giờ đã không hề run sợ trước những ngọn lửa, những hầm tối. Họ

tiếp tục sự nghiệp của mình ngay trong khi giam cầm và ngay trước giàn lửa

thiêu.

c. Bản đồ học thời cận đại (nửa cuối thế kỷ XVII và thế kỉ XVIII)

Chính sự phát triển của các quan hệ sản xuất tư bản ở các nước Tây Âu

đã tạo ra sự phát triển mạnh hơn của bản đồ học. Nhu cầu bản đồ chính xác về

một khu vực rộng lớn, thế giới đòi hỏi cần có các phương pháp mới, và các

biện pháp thích hợp để xử lý nguồn tư liệu.

Các trung tâm hoạt động về lĩnh vực bản đồ đã chuyển về các viện hàn

lâm khoa học Pháp (Pari 1666), Đức (Berlin 1700), Nga (Pêtécbua 1724)...

Vào đầu thế kỉ XVIII, Pháp trở thành nước đi đầu trong đo vẽ địa hình

đất nước. Họ đã đo vẽ địa hình trên cơ sở lưới tam giác trắc địa do các thế hệ

nhà Cassini thiết lập.

Năm 1789 có 182 mảnh bản đồ địa hình Quốc gia của nước Pháp đã

được hoàn thành.

Ở Anh, trong điều kiện tăng nhanh nhu cầu bản đồ phục vụ cho đi biển

buôn bán và tìm kiếm thuộc địa, các loại bản đồ biển, địa lí cũng rất phát triển.

Để giúp dễ dàng xác định được kinh tuyến trên biển, năm 1675 người ta đã

thiết lập ra đài thiên văn Greenwich ở ngoại ô Luân Đôn.

Dựa vào các tư liệu về độ lệch từ tính, thuỷ chiều, gió,... nhà thiên văn

học người Anh tên là Edward Halley (1656-1742) đã thành lập các bản đồ địa lí

tự nhiên về sức gió (1688), bản đồ độ đẳng từ khuynh (1701).

d. Bản đồ học thời hiện đại

Trong thế kỷ XVIII và XIX, bản đồ địa lý dùng cho quân sự đã có nhiều

hạn chế, quân đội có nhu cầu lớn về bản đồ địa hình. Các cơ quan quân sự về

15

địa hình đã hình thành để đo vẽ các bản đồ địa hình tỷ lệ đủ lớn trên cơ sở một

lưới khống chế trắc địa chính xác là lưới tam giác.

Để thể hiện tốt và chính xác địa hình, người ta không thể dùng phương

pháp cũ (phối cảnh hay bán phối cảnh) mà dùng phương pháp gạch nét

(phương pháp do nhà bản đồ xứ Xắc Xông đề xướng năm 1799). Bằng phương

pháp này, người ta thể hiện các sườn dốc chính xác hơn.

Cuối thế kỷ XIX, các bản đồ địa hình quân sự tỷ lệ lớn ở nhiều nước đã

được xuất bản trọn bộ. Hệ thống bản đồ chi tiết trên đã tạo cơ sở chắc chắn cho

việc biểu thị chính xác bề mặt Trái Đất và làm các bản đồ dẫn xuất.

Tuy nhiên, các bản đồ địa hình quân sự không chú ý đến các nhu cầu của

dân sự, xã hội, do đó xuất hiện thêm các cơ quan đo vẽ và thành lập bản đồ

chuyên ngành đáp ứng nhu cầu đo đạc đất đai, điều tra và quy hoạch, khai thác

khoáng sản, khảo sát địa chất,...

Trong thế kỷ XIX, nhiều elipxôit trái đất được đưa ra (Everet 1830;

Bessen 1841; Klar 1880,...). Sang thế kỷ XX, nhiều phép chiếu bản đồ tốt được

ứng dụng rộng rãi (Gauss, UTM,...). Phương pháp đo vẽ bản đồ địa hình bằng

ảnh hàng không chính thức được áp dụng rộng rãi trên thế giới.

Cùng với việc đo vẽ chi tiết ở tỉ lệ lớn đầu thế kỷ XX, thế giới bắt đầu

chú ý đến việc thành lập các sản phẩm bản đồ toàn cầu.

Trước hết là bản đồ quốc tế tỉ lệ 1:1.000.000 do hội địa lý thế giới đề

xướng, đến năm 1978 đã có khoảng 900 mảnh phủ trùm hầu hết trái đất. Năm

1974, sau một thời gian hợp tác, các nước XHCN ở Châu Âu đã hoàn thành bộ

bản đồ thế giới tỷ lệ 1:2.500.000 gồm 224 mảnh phủ trùm cả trái đất (cả lục địa và

đại dương).

Thế giới còn chú ý đến việc thành lập các Atlas toàn cầu chỉ gồm các bản

đồ địa lý tổng quát nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu và nghiên cứu sâu bề mặt

trái đất hay một khu vực nào đó của nó. Đến nay, các Atlas địa lý tổng quát

toàn cầu, khu vực và quốc gia thể hiện về địa hình, phân chia hành chính –

chính trị đã trở thành sản phẩm phổ biến và thông dụng.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!