Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

sử dụng mô hình vật lý trong dạy học chương “chất khí” lớp 10 thpt ban nâng cao nhằm tổ chức hoạt
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
* *
VŨ TRÚC THANH HOÀI
SỬ DỤNG MÔ HÌNH VẬT LÝ TRONG DẠY HỌC
CHƯƠNG “CHẤT KHÍ” LỚP 10 THPT BAN NÂNG
CAO NHẰM TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
TÍCH CỰC, TỰ LỰC, SÁNG TẠO CHO HỌC SINH
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VẬT LÝ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cám ơn thầy Nguyễn Mạnh
Hùng, người đã giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quý báu cho em trong suốt
quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô
trong khoa Vật lý Trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh cùng
tập thể các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Lý luận và Phương pháp giảng dạy
đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt bốn năm
học tại trường và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để em có thể hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cám ơn đến thầy Nguyễn Văn Bỉ, giáo viên hướng dẫn
thực tập sư phạm, cùng tập thể các em học sinh các lớp 10A06, 10A01 trường
THPT Võ Thị Sáu đã tạo điều kiện thuận lợi cho em có thể hoàn thành quá
trình thực nghiệm sư phạm.
Sau nữa, em muốn nói lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình
và bạn bè, những người đã động viên giúp đỡ em vượt qua những khó khăn
trong học tập cũng như trong cuộc sống.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2010
Sinh viên
Vũ Trúc Thanh Hoài
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại của nền khoa học và công nghệ phát triển như
vũ bão. Trong đó, hầu hết các phát triển của khoa học đều được ứng dụng vào thực
tiễn và đời sống. Có thể nói rằng thế giới đang bước vào thời kì khoa học công nghệ
hiện đại, thời kì của kinh tế tri thức, thương mại dịch vụ điện tử,…cùng nhiều vấn đề
xã hội mang tính toàn cầu hóa: chiến tranh, vũ khí hạt nhân, bảo vệ môi trường,… xã
hội loài người đang phát triển vượt bậc bằng tư duy khoa học, sáng tạo và năng lực
làm việc, bằng chất xám của con người.
Trong khi đó, Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển. Để có thể bắt nhịp sự
phát triển chung của thế giới nhân tố quyết định thắng lợi trong công cuộc CNH- HĐH
đất nước và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn nhân lực Việt Nam được phát
triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Đó là
những con người năng động, sáng tạo, biết tìm tòi, học hỏi và biết áp dụng sáng tạo
tinh hoa văn hóa nhân loại, biết tìm ra lối đi riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của
dân tộc, đó phải là những con người sản phẩm của nền giáo dục mới.
Trước những yêu cầu của thời đại, đòi hỏi nền giáo dục phải thực hiện đổi mới
giáo dục phổ thông một cách đồng bộ về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương
tiện dạy học cũng như cách thức đánh giá kết quả dạy học, nhằm đào tạo nên một
nguồn nhân lực được trang bị đầy đủ kiến thức, kĩ năng, năng lực sáng tạo ra tri thức
mới đáp ứng kịp thời cho sự CNH-HĐH đất nước.
“Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
sáng tạo của học sinh, phù hớp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh,
điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác,
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Vậy, làm thế nào để hình thành và phát triển năng lực tự học và sáng tạo cho học
sinh? Vấn đề này đã được nhiều nhà giáo dục trên thế giới đề cập đến từ rất lâu. Trong
quá trình tìm tòi phương pháp nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh, nhiều
nhà Sư Phạm đã khẳng định: muốn phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo cho học
sinh thì tốt hơn hết là phải tổ chức cho học sinh hoạt động học tập theo con đường
sáng tạo của các nhà khoa học. Phải tạo các điều kiện cho học sinh tự học và sáng tạo.
Một trong những điều kiện giúp học sinh học tập tích cực, tự lực, sáng tạo là sử dụng
các mô hình.
Ưu điểm của việc sử dụng mô hình là giáo viên có thể giúp học sinh hiểu rõ đối
tượng nghiên cứu, vì mô hình mang tính trực quan, sinh động, dễ gây ấn tượng và
thích thú cho học sinh, có thể kích thích sự tìm tòi, say mê nghiên cứu để suy luận ra
kiến thức vật lý mới, từ đó có thể phát triển được năng lực sáng tạo cho học sinh.
Trong chương trình vật lý 10 THPT, chương “Chất khí” được khảo sát về vi mô
và vĩ mô, có nhiều kiến thức phải đi sâu vào cơ chế phân tử, nguyên tử hoặc mô tả
tổng quát. Vì vậy, việc sử dụng các mô hình dạy học trong chương này sẽ có rất nhiều
tác dụng trong việc tạo điều kiện cho học sinh hoạt động học tập tích cực, tự lực, sáng
tạo.
Với những lý do trên, em đã chọn vấn đề: “SỬ DỤNG MÔ HÌNH VẬT LÝ
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “CHẤT KHÍ” LỚP 10 THPT BAN NÂNG CAO
NHẰM TỐ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TÍCH CỰC, TỰ LỰC, SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Đây chính là một cơ hội rất tốt để em có thể tiếp cận, tìm hiểu và nghiên cứu sâu
hơn về phương pháp dạy học, từ đó có định hướng rõ ràng hơn về phương pháp giảng
dạy của mình sau này.
II. Tổng quan về các đề tài nghiên cứu có liên quan
Hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học đang là một vấn đề “nóng hổi”, được
nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục quan tâm.
Trong những nghiên cứu về việc đổi mới phương pháp dạy học thì cũng đã có
nhiều đề tài nói về việc dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo cho học
sinh dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên. Và một trong những nghiên cứu bàn
về vấn đề này là: “Tổ chức hoạt động học tập tự lực cho học sinh trong dạy học
chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” vật lý 10 THPT” của tác giả
Nguyễn Thục Uyên; đề tài: “Phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh trong
dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang học” lớp 12 THPT của tác giả Thái Văn
Vinh”; đề tài: “Phát huy vai trò trung tâm của học sinh trongquá trình dạy học chương
“Động học chất điểm” lớp 10 trung học phổ thông ban cơ bản” của tác giả Trần Thanh
Bình; đề tài: “Sử dụng phương pháp nhận thức (phương pháp mô hình) trong dạy học
vật lý phổ thông nhằm phát triển tư duy của học sinh”; đề tài: “Nghiên cứu, tổ chức
tình huống học tập và hướng dẫn học sinh tích cực, tự lực và chiếm lĩnh kiến thức
trong quá trình học chương “Từ trường” lớp 11” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc
Diễm”;…Đây là các tài liệu bổ ích để em có thể tham khảo trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
Chúng ta nhận thấy rằng để cho học sinh có thể hoạt động học tập tự lực, sáng
tạo thì cần phải tổ chức, định hướng, tạo điều kiện cho học sinh tự giải quyết các vấn
đề, tự lực suy nghĩ, đề xuất các phương án, và đưa ra kiến thức mới,…Việc nghiên cứu
về cơ sở lý luận cũng được các đề tài bàn đến khá nhiều nhưng việc áp dụng vào thực
tiễn thì còn nhiều khó khăn. Hơn nữa, phần lớn các nghiên cứu trên đều khai thác các
phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp thực nghiệm,…các phương pháp nhằm
phát triển tư duy và năng lực sáng tạo cho học sinh, và cũng có ít đề tài nghiên cứu sâu
việc sử dụng các mô hình vật lý trong dạy học.
Là một giáo viên vật lý tương lai, để có thêm cho mình một phương pháp dạy
học tốt sau này cũng như góp phần cung cấp cho giáo viên một số công cụ trong giảng
dạy, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài sử dụng mô hình vật lý trong dạy học chương
“Chất khí” Vật lý lớp 10 THPT nâng cao nhằm tổ chức cho học sinh hoạt động học
tập tích cực, tự lực, sáng tạo.
III. Mục đích của đề tài
Xây dựng và sử dụng các mô hình Vật lý trên máy tính để thiết kế tiến trình dạy
học một số kiến thức thuộc chương “Chất khí” ở lớp 10 nâng cao nhằm tổ chức cho
học sinh học tập tích cực, tự lực, sáng tạo.
IV. Đối tượng
- Hoạt động dạy học chương: “Chất khí” Vật lý lớp 10 THPT ban nâng cao.
V. Giả thuyết khoa học
- Việc sử dụng các mô hình Vật lý trong dạy học có thể tăng cường khả năng
học tập tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh.
VI. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lí luận dạy học hiện đại về việc thiết kế các tiến trình dạy học
vật lý theo hướng tổ chức hoạt động học tập tích cực, tự lực, sáng tạo của học
sinh.
- Xây dựng một số mô hình Vật lý thuộc chương “Chất khí” của chương trình
Vật lý 10 ban nâng cao.
- Xây dựng các tiến trình dạy học chương “Chất khí” vật lý lớp 10 ban nâng cao
có sử dụng một số mô hình Vật lý đã xây dựng bằng phần mềm Macromedia
Flash 8 nhằm phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo cho học sinh.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT nhằm xác định mức độ phù
hợp, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của từng tiến trình và sau đó rút kinh
nghiệm để hoàn thiện những tiến trình đã xây dựng.
VII. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu về cơ sở lí luận dạy học hiện đại về tổ chức hoạt động học
tập tự lực, sáng tạo của học sinh; nghiên cứu tài liệu về việc sử dụng mô hình
trong dạy học; tìm hiểu phần mềm Macromedia Flash 8 để có thể thiết kế một
số mô hình Vật lý trong chương “Chất khí” lớp 10 ban nâng cao.
- Nghiên cứu chương trình giảng dạy nội dung chương “Chất khí” trong sgk lớp
10 THPT ban nâng cao và ban cơ bản.
- Nghiên cứu tư liệu về nội dung, con đường hình thành kiến thức, mục đích, yêu
cầu giảng dạy chương “Chất khí” vật lý lớp 10 ban nâng cao.
- Trong quá trình nghiên cứu lí luận và từ kết quả quan sát thực tiễn sư phạm, từ
kết quả học tập HKI của một số lớp của học sinh trường THPT tiến hành thực
nghiệm, đối chiếu để đưa ra đánh giá, tổng kết những kinh nghiệm thu thập
được, từ đó đề ra hoặc chọn một phương pháp dạy học và vận dụng lý luận để
xây dựng các tiến trình dạy học cụ thể theo phương pháp đó để tiến hành thực
nghiệm.
- Thực nghiệm sư phạm: vận dụng phương pháp dạy học trên vào một số lớp ở
trường THPT Võ Thị Sáu để xem trong phương pháp này có những điểm nào
phù hợp và chưa phù hợp để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện phương pháp dạy
học. Trong quá trình giảng dạy thực nghiệm thì cho học sinh làm việc trên
phiếu học tập, làm một số câu hỏi trắc nghiệm khách quan để đánh giá mức độ
hiểu, vận dụng kiến thức bài học của học sinh.
Chương I: Cơ sở lí luận của việc sử dụng mô hình
vật lý nhằm tổ chức cho học sinh học tập tích cực, tự
lực, sáng tạo
VIII.Mục tiêu dạy học và định hướng đổi mới dạy học Vật lý ở trường THPT
I.1. Mục tiêu dạy học Vật lý ở trường THPT
Mỗi một quốc gia, nhà nước căn cứ vào nhu cầu phát triển của kinh tế, văn hóa,
xã hội của đất nước vào thời điểm hiện tại và tương lai, đều có một mục tiêu giáo dục
chung cho quốc gia của mình. Như vậy, mục tiêu này sẽ thay đổi theo mỗi giai đoạn
phát triển của đất nước. Tuy nhiên, nền giáo dục ở bất kì nước nào cũng phải nhằm
đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người có năng lực, tích cực tham gia vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kì CNH - HĐH đất nước, hòa nhập với
cộng đồng trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Đứng trước tình hình đó, nhằm đáp
ứng được mục tiêu chung của sự nghiệp giáo dục nước nhà, môn học vật lý cũng có
những mục tiêu cụ thể cho mỗi cấp học trong giai đoạn mới.
Mục tiêu giáo dục trung học phổ thông, trong điều 23 có định hướng: “Mục tiêu
giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho
học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng vào bảo
vệ tổ quốc”. Về nội dung thì điều 24 cũng nêu rõ: “Phương pháp dạy học phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hớp với đặc
trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho
học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học
tập cho học sinh”. Do đó mục tiêu cụ thể của môn học vật lý ở phổ thông trung học đề
ra có nhiều yêu cầu toàn diện.
I.1.1. Kiến thức
Cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, cho nhiều ngành lao động trong xã hội (gồm
chủ yếu là vật lý cổ điển và một số thành tựu của các lĩnh vực vật lý hiện đại: điện tử
học, vật lý hạt nhân, vật lý chất rắn, vũ trụ, vật lý lượng tử,…).
I.1.2. Kỹ năng, năng lực tư duy
Có khả năng thu thập thông tin quan sát được, điều tra, tra cứu và khai thác thông
tin qua mạng.
Xử lý thông tin: khái quát hóa rút ra kết luận, lập bảng biểu, vẽ đồ thị, sắp xếp hệ
thống hóa và lưu giữ thông tin.
Có khả năng truyền đạt thông tin bằng lời nói.
Phát hiện, nêu vấn đề, đề xuất giải thuyết và phương pháp giải quyết vấn đề.
Biết sử dụng các dụng cụ đo lường phổ thông, lắp ráp, thực hiện thí nghiệm.
Vận dụng kiến thức một cách sáng tạo để giải quyết vấn đề học tập và thực tế.
Khả năng tự học, sáng tạo, tự chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng.
I.1.3. Định hướng phương pháp dạy học
Dạy học bằng hành động thông qua hoạt động, theo hướng phát hiện và giải
quyết vấn đề, nêu giả thuyết, kiểm chứng bằng thực nghiệm, sử dụng phương pháp mô
hình và tương tự, khắc phục hiểu biết sai và chưa đầy đủ, tăng cường dạy học theo
nhóm và các thể hóa, đa dạng hóa hành động học tập trong và ngoài lớp học.
Kết luận
Để đáp ứng được mục tiêu giáo dục của môn vật lý ở phổ thông trung học trong
giai đoạn mới, yêu cầu cấp thiết lúc này là phải đổi mới chương trình giáo dục trung
học phổ thông, trong đó có đổi mới phương pháp giảng dạy.
I.2. Định hướng đổi mới của chương trình vật lý THPT
I.2.1. Những định hướng chung
Chương trình vật lý phải bám sát mục tiêu của cấp học, nghĩa là chương trình vật
lý phải góp phần tạo cho học sinh một tiềm lực về kiến thức và kỹ năng khoa học để
có thể sống và lao động tốt trong một xã hội công nghiệp hiện đại mang tính XHCN.
Chương trình Vật lý phải có tính chất phổ thông, cơ bản, tương đối hiện đại và thiết
thực, phù hợp với tình hình của nhà trường và xã hội Việt Nam trong khoảng 15 năm
đầu thế kỉ XXI.
Có một tỉ lệ phù hợp giữa lý thuyết và thực hành, vì vật lý phổ thông về căn bản
vẫn là một khoa học thực nghiệm.
Cấu trúc của chương trình phải phù hợp với trình độ phát triển tư duy của học
sinh, do đó không nhất thiết phải đi theo trình tự cổ điển từ Cơ học, Nhiệt học đến
Điện học, Quang học và Vật lý hạt nhân.
Chương trình, và nhất là sách giáo khoa Vật lý, phải tạo điều kiện tốt cho việc áp
dụng các phương pháp dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và
sáng tạo của học sinh trong học tập.
Chương trình Vật lý phải đảm bảo ở mức độ tốt nhất mối quan hệ liên môn với
các chương trình của các môn Toán học, Hóa học, Sinh học và Công nghệ, đồng thời
cũng đảm bảo sự kế thừa và kiên thông với các chương trình vật lý trung học cơ sở và
chương trình Vật lý của các trường chuyên nghiệp.
I.2.2. Những định hướng cụ thể
Về kiến thức
* Tính phổ thông, cơ bản của kiến thức
Đó là những kiến thức vật lý cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và cho nhiều
ngành lao động trong xã hội mà phần lớn là những kiến thức của vật lý học cổ điển,
phần lớn là những vấn đề đã được nói đến tương đối phổ biến trong xã hội ngày nay.
* Tính cập nhật và hiện đại của chương trình
Các kiến thức vật lý phổ thông được trình bày phù hợp với tinh thần của các lý
thuyết Vật lý hiện đại như thuyết lượng tử, thuyết tương đối, gắn nhiệt độ với chuyển
động phân tử, gắn từ trường với dòng điện, gắn quang phổ với cấu tạo nguyên tử,…
* Chương trình đưa vào phải hết sức tinh giản
Những kiến thức đưa vào chương trình phải hết sức tinh lọc. Đó là những kiến
thức quan trong đối với nhiều ngành khoa học và kỹ thuật như Năng lượng, khối
lượng, các định luật bảo toàn, các định luật động lực,…là những kiến thức có tần số sử
dụng lớn. Mạnh dạn đưa ra khỏi chương trình những vấn đề quan trọng về mặt lý
thuyết mà không có ứng dụng trực tiếp vào thực tế.
Tóm lại
Định hướng về việc trang bị cho học sinh những kiến thức vật lý trong giai đoạn
mới, đòi hỏi kiến thức phải vừa đầy đủ, sâu rộng, cập nhật nhưng lại phải cô đọng vì
thời lượng giảng dạy không thay đổi. Vấn đề đặt ra là người giáo viên không thể cứ
mãi giảng dạy theo phương pháp cũ (giáo viên làm hết mọi việc), mà cần phải chia sẻ
công việc với học sinh, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu,
phương pháp tìm kiếm và xử lý thông tin. Qua đó từng bước đòi hỏi trong lúc học tập,
học sinh phải chủ động sáng tạo, tích cực tham gia vào các hoạt động chiếm lĩnh tri
thức mà giáo viên tổ chức trên lớp.
Về kỹ năng
Hai thành tố quan trọng của năng lực nhận thức là kiến thức và kỹ năng. Do đó,
chương trình Vật lý cần coi trọng đúng mức việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
* Các kỹ năng chung cho mọi môn học, và đặc biệt là môn Vật lý
- Các kỹ năng thu thập thông tin từ các việc quan sát, tra cứu, điều tra, khai thác
thông tin,…
- Các kỹ năng xử lý thông tin để rút ra kết luận, thành lập bảng biểu, vẽ đồ
thị,…để rút ra quy luật, sắp xếp hệ thống và lưu trữ thông tin.
- Kỹ năng truyền đạt thông tin bằng lời, bằng văn bản.
- Khả năng tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề.
* Những kỹ năng và khả năng chuyên biệt của môn Vật lý
- Kỹ năng sử dụng các dụng cụ đo lường phổ thông như: thước, cân, bình chia
độ, nhiệt kế, áp lế, vôn kế,…
- Kỹ năng lắp ráp và thực hiện những thí nghiệm vật lý phổ thông đơn giản.
- Khả năng sử dụng các thuật ngữ Vật lý.
Tóm lại
Đó chính là những kỹ năng cần thiết có thể giúp học sinh hoạt động nhận thức
một cách độc lập, chủ động. Để giúp học sinh có được kỹ năng này, giáo viên không
còn cách nào khác là phải dạy học trên cơ sở tổ chức hoạt động nhận thức cho học
sinh, và chính vì những hoạt động do tự bản thân học sinh tham gia nên các kỹ năng sẽ
từng bước được hoàn thiện.
Về phương pháp nhận thức
Các nhà Didactic đã khẳng định dạy một khoa học nào thì tốt nhất là phải sử
dụng chính các phương pháp nhận thức của khoa học ấy. Nên bên cạnh việc trang bị
kiến thức, kỹ năng cho học sinh, tư tưởng đổi mới chương trình vật lý trung học phổ
thông cũng định hướng về vấn đề cung cấp các phương pháp nhận thức phổ biến trong
Vật lý học cho học sinh.
Ở cấp độ trung học cơ sở là phương pháp thực nghiệm trong Vật lý.
Ở cấp trung học phổ thông, ngoài phương pháp thực nghiệm trong vật lý, cần
trang bị cho học sinh phương pháp tương tự trong vật lý, phương pháp thí nghiệm
tưởng tượng trong vật lý, phương pháp mô hình trong vật lý học.
Đây chính là những phương pháp được sử dụng trong việc dạy học trên cơ sở tổ
chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Tức là học sinh phải được học tập bằng chính
nhận thức của bản thân, qua đó dần dần hình thành phương pháp nhận thức mới.
Về tình cảm, tác phong, thái độ, thói quen, phong cách
Bên cạnh việc rèn luyện cho học sinh những đức tính chung như: ý thức tự giác
và chủ động trong học tập, lòng ham hiểu biết, tính kế hoạch trong công việc, sự cần
cù, chăm chỉ trong học tập,…Môn Vật lý còn có ưu thế trong việc rèn luyện cho học
sinh những đức tính:
- Tính cẩn thận, chu đáo trong công việc, nhất là trong việc thí nghiệm thực hành.
- Tính trung thực với kết quả thí nghiệm và thực tế khách quan.
- Ý thức và tác phong hợp tác, có trách nhiệm trong lao động học tập, nhất là
trong thí nghiệm thực hành.
- Tôn trọng thành quả lao động của người khác và của chính mình.
- Lòng yêu thích, đam mê đối với môn Vật lý và mở rộng ra là việc yêu thích sự
hài hòa của thế giới tự nhiên.
Một lần nữa, tư tưởng đổi mới lại đòi hỏi giáo viên phải dạy học trên cơ sở tổ
chức các hoạt động nhận thức, chỉ bằng chính hoạt động nhận thức của bản thân
học sinh, các phẩm chất tâm lý tốt đẹp mới từng bước được hình thành.
Về việc tự học, tự nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức
Ngoài những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, các phẩm chất tâm lý tốt đẹp mà
học sinh đã được rèn luyện trên lớp thông qua chính hoạt động nhận thức của mình.
Dạy học trên cơ sở tổ chức hoạt động nhận thức đòi hỏi học sinh phải tự lực học tập, tự
nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức. Để rèn luyện được thói quen này cho học sinh,
người giáo viên phải luôn luôn yêu cầu học sinh tham gia vào quá trình học tập, độc
lập suy nghĩ, mạnh dạn đưa ra các ý kiến, các đề xuất, các phê phán của bản thân.
Kết luận
Chúng ta thấy rất rõ rằng, trong tất cả các phương hướng đổi mới chương trình
Vật lý phổ thông, tất cả các yếu tố đều tự nhiên dẫn đến câu hỏi: “Làm thế nào để giúp
học sinh tham gia tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo,…vào các hoạt động nhận thức
được tổ chức một cách đúng đắn, phù hợp, giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, hình
thành các kỹ năng, được trang bị các phương pháp hoạt động nhận thức, phát huy
những phẩm chất tâm lý tốt đẹp?”. Nghĩa là từng bước hình thành cho học sinh năng
lực nhận thức, năng lực giải quyết vấn đề. Và chỉ có duy nhất một câu trả lời là giáo
viên phải dạy học trên cơ sở tổ chức các hoạt động nhận thức, bởi vì:
Tâm lý học đã khẳng định: năng lực nhận thức của con người được hình thành
qua chính hoạt động nhận thức, từ đó có thể khẳng định: dạy học hướng tới hình thành
năng lực nhận thức cần phải thông qua việc tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh.
Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh cần phải tuân theo những bước đi cơ bản
của hoạt động nhận thức trong khoa học Vật lý, phải sử dụng hợp lý các phương pháp
nhận thức trong khoa học vật lý.
Chỉ khi học sinh được đặt vào các hoạt động nhận thức đảm bảo tính khoa học và
phù hợp thì mới từng bước được trang bị các kỹ năng, kỹ xảo, từng bước biết kết hợp
chúng trong hoạt động nhận thức giải quyết vấn đề, năng lực nhận thức từng bước mới
được hình thành.
Trong sự nghiệp cải cách giáo dục bộ môn Vật lý trung học phổ thông, việc
nghiên cứu cải cách nội dung dạy học đã được tiến hành tương đối thấu đáo, nhưng
việc nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy chưa được triển khai tương xứng với
sự thay đổi của nội dung dạy học.
Trong giai đoạn mới, định hướng chung và cụ thể trong dạy học vật lý ở trung
học phổ thông là mỗi người giáo viên phải tự lực thay đổi phương pháp giảng dạy của
mình, chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, hay cũng chính là sử dụng phương pháp dạy học theo hướng tổ chức hoạt
động nhận thức Vật lý, nâng cao năng lực sáng tạo và giải quyết vấn đề cho học sinh.
Vật lý là một ngành khoa học thực nghiệm, nó nghiên cứu sự vận động của vật
chất, mà sự vận động này là vô cùng phong phú và đa dạng. Trong khi đó, không phải
hiện tượng vật lý nào giáo viên cũng có thể mô tả bằng lời nói mà học sinh có thể hình
dung được và không phải tất cả các thí nghiệm vật lý đều được thực hiện cho học sinh
xem hay thực hành trên lớp (do điều kiện về thời gian cũng như về cơ sở vật chất của
nhà trường).
Do đó, để các thí nghiệm vật lý có thể phát huy hết hiệu quả của nó. Điều quan
trọng là: giáo viên phải hết sức linh hoạt trong việc tổ chức cho học sinh học tập, làm
quen, tiếp cận với những thí nghiệm vật lý. Hơn nữa, giáo viên không chỉ tiến hành thí
nghiệm cho thật rõ ràng mà còn cần phải cải tiến mô hình thí nghiệm, sử dụng các
phương tiện hỗ trợ hình ảnh, âm thanh,…như máy vi tính, các phần mềm mô phỏng
các hiện tượng và các thiết bị khác. Nhờ đó có thể tăng tính trực quan, sinh động, gây
sự chú ý và hứng thú trong học tập, giúp các em có thể hoạt động học tập tích cực, tự
lực, sáng tạo.
IX. Các phương pháp tổ chức cho học sinh học tập tự lực, sáng tạo trong dạy
học vật lý
I.1. Tích cực, tự lực học tập và các biện pháp tổ chức
I.1.1. Tích cực, tự lực học tập
Tính tích cực, tự lực là một phẩm chất của con người trong đời sống xã hội, trong
đó con người không chỉ tiêu thụ những gì có sẵn trong thiên nhiên mà còn chủ động
tạo ra những của cải vật chất cần thiết cho sự sống, sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người.
Tính tích cực, tự lực trong học tập, về bản chất là tích cực nhận thức, đặc trưng
bởi sự mong muốn hiểu biết và có khát vọng học tập, cố gắng, nghị lực trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức.
I.1.2. Các biện pháp tổ chức cho hoạt động học tập tích cực, tự lực
Tổ chức hoạt động học tập tích cực, tự lực cho học sinh có liên quan đến nhiều
vấn đề, trong đó các yếu tố như động cơ, hứng thú học tập, năng lực, ý chí cá nhân,
không khí dạy học,…đóng vai trò rất quan trọng. Trong đó, có nhiều yếu tố là kết quả
của một quá trình hình thành lâu dài và thường xuyên. Do đó giáo viên phải là người
góp phần quan trọng trong việc tạo ra những điều kiện tốt nhất để học sinh học tập, rèn
luyện và phát triển.
Biện pháp tổ chức cho học sinh hoạt động học tập tích cực, tự lực
* Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu.
* Nội dung dạy học phải mới, nhưng không quá xa lạ với học sinh, mà cái mới
phải liên hệ, phát triển cái cũ và có khả năng áp dụng trong tương lai. Kiến thức phải
có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt, suy nghĩ hàng ngày, thỏa mãn nhu cầu nhận
thức của học sinh..
* Phải dùng các phương pháp đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so
sánh, tổ chức thảo luận, sêmina và phối hợp chúng với nhau.
* Kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẫn với
nhau, tập trung vào những vấn đề then chốt, có lúc diễn ra một cách đột ngột, bất ngờ.