Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố Hà Nội hiện nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
----------------------------------------
Nguyễn Thị Lan Hƣơng
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở
CÁC LÀNG BỐI KHÊ (HUYỆN PHÚ XUYÊN) VÀ
VŨ LĂNG (HUYỆN THANH OAI), THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số : 62 31 06 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRƢƠNG QUỐC BÌNH
Hà Nội - 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở
các làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành
phố Hà Nội hiện nay là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích dẫn, số liệu
và kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2014
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Lan Hương
3
MỤC LỤC
Lời cam đoan .............................................................................................................1
Mục lục.......................................................................................................................2
Danh mục các chữ viết tắt ........................................................................................3
Danh mục các bảng biểu trong luận án...................................................................4
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU THỔ
BẮC BỘ VÀ Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ, VŨ LĂNG (THÀNH PHỐ
HÀ NỘI)
1.1. Nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ ........................................................27
1.2. Nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng ...................................40
Tiểu kết......................................................................................................................62
Chƣơng 2: NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ VÀ VŨ
LĂNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA HIỆN NAY
2.1. Những tác nhân chủ yếu của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống ..............64
2.2. Những biểu hiện cụ thể của quá trình biến đổi của nghề sơn truyền thống ......68
2.3. Hệ quả của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống .........................................87
Tiểu kết......................................................................................................................99
Chƣơng 3: VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CÁC
LÀNG BỐI KHÊ, VŨ LĂNG VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA
LUẬN ÁN
3.1.Định hướng phát triển nghề sơn truyền thống ở hai làng
Bối Khê và Vũ Lăng..............................................................................101
3.2. Một vài biện luận về tính mới của luận án.......................................................126
Tiểu kết....................................................................................................................130
KẾT LUẬN............................................................................................................132
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ...................................................136
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 137
PHỤ LỤC...................................................................................................................... 148
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1. A. : Ảnh
2. HTX : Hợp tác xã
3. NCS : Nghiên cứu sinh
4. Nxb : Nhà xuất bản
5. PL : Phụ lục
6. STT : Số thứ tự
7. TLTK : Tài liệu tham khảo
8. Tp. : Thành phố
9. Tr. : Trang
10. TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
11. UBND : Ủy ban nhân dân
5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Bảng 1: Tổng thu nhập từ các ngành nghề của làng Bối Khê trong 5 năm
gần đây ......................................................................................................................61
Bảng 2: Tổng thu nhập từ các ngành nghề của làng Vũ Lăng trong 5 năm
gần đây .......................................................................................................................61
Bảng 3: Số lượng các cơ sở sản xuất ở làng nghề Bối Khê trong 5 năm
gần đây ......................................................................................................................79
Bảng 4: Số lượng các cơ sở sản xuất ở làng nghề Vũ Lăng trong 5 năm
gần đây ......................................................................................................................79
Bảng 5: Số lượng lao động tại làng nghề Bối Khê trong 5 năm
gần đây ......................................................................................................................81
Bảng 6: Số lượng lao động tại làng nghề Vũ Lăng trong 5 năm
gần đây ......................................................................................................................81
Bảng 7: Số lượng lao động từ nơi khác đến làm nghề sơn tại làng nghề Bối Khê
trong 5 năm gần đây................................................................................................. 82
Bảng 8: Số lượng lao động từ nơi khác đến làm nghề sơn tại làng nghề Vũ Lăng
trong 5 năm gần đây ..................................................................................................82
Bảng 9: Số hộ nghèo của làng nghề Bối Khê ................................................86
Bảng 10: Số hộ nghèo của làng nghề Vũ Lăng..............................................86
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và quá trình toàn cầu hoá đang tác
động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, dân tộc, hơn lúc nào hết, việc giữ gìn và phát
huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc, trong đó có các nghề thủ công truyền thống
đang được đặt ra một cách bức thiết, bởi nó có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển bền vững của đất nước. Nghề thủ công truyền thống hiện được coi là một trong
7 lĩnh vực của di sản văn hóa phi vật thể góp phần thể hiện bản sắc cũng như đặc
trưng diện mạo nông thôn và nhiều đô thị ở Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã bước sang giai đoạn mới: giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những nội dung trọng tâm của quá trình
này là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, trong đó việc khôi
phục, phát triển nghề và làng nghề thủ công truyền thống có vai trò hết sức quan
trọng bởi nó thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn với việc tạo
công ăn việc làm cho lao động, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân,
góp phần phát triển các loại hình du lịch và dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu trong tiến
trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Nghề thủ công truyền thống Việt Nam với 11 nhóm nghề chính như nghề
sơn mài, ngành nghề gốm sứ thủy tinh, nghề thêu ren, nghề dệt, nghề mây tre đan,
nghề cói, nghề giấy thủ công, nghề tranh in khuôn gỗ, nghề chạm khắc đá, nghề gỗ,
nghề kim khí đúc đồng, chạm bạc…[114, tr.9] tạo nên hơn 2000 làng nghề thủ công
(đã được công nhận) phân bố suốt chiều dài đất nước đã và đang là một bộ phận
quan trọng của kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Bằng đôi bàn tay khéo léo, đôi mắt
thẩm mỹ và óc sáng tạo của mình, nghệ nhân ở các ngành nghề thủ công truyền
thống đã chế tác ra nhiều sản phẩm phục vụ cho hoạt động sống của con người,
đồng thời gìn giữ và trao truyền cho các thế hệ mai sau những tinh hoa nghệ thuật,
kỹ thuật dân gian cùng kinh nghiệm sản xuất của cộng đồng làm nghề.
Nằm trong vùng châu thổ Bắc Bộ - vùng đất vốn được coi là cái nôi của
nhiều nghề, làng nghề thủ công, khu vực Hà Nội hiện đang là nơi hội tụ 47 nghề
7
trong tổng số 52 nghề trên toàn quốc [117, tr.15] với 286 làng nghề truyền thống đã
được công nhận [119]. Trong số các nhóm nghề thủ công truyền thống đang hiện
diện trên mảnh đất Thủ đô phải kể tới nghề sơn - một nghề cổ truyền xuất hiện từ
rất sớm trên đất nước ta và đã để lại dấu ấn bản sắc văn hóa Việt Nam đối với thế
giới. Nghề sơn cùng với chất liệu và sản phẩm của nó đã trở thành vốn quý của văn
hóa dân tộc và nhân loại bởi bên cạnh việc góp tiếng nói chung với các nước trên
thế giới ở tính trang trí, tính ứng dụng, phục vụ đời sống sinh hoạt và tín ngưỡng
của con người thì ở Việt Nam, vào những năm 30 của thế kỷ XX, nghệ thuật tranh
sơn mài đã ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển nghề sơn cổ truyền. Có thể nói, đó
là giá trị mới mang tính nghệ thuật với đầy đủ bản sắc dân tộc và thời đại, truyền
thống và hiện đại, làm phong phú hơn ngôn ngữ biểu đạt của sơn ta. Đến thời điểm
này, Hà Nội là nơi tập trung nhiều làng có nghề sơn nhất cả nước với 8 làng nghề
chuyên sâu đang và đã từng hoạt động. Nếu tính cả những làng nghề có sử dụng sơn
ta với ý nghĩa là một chất liệu cần có trong quy trình chế tác sản phẩm thì Hà Nội
hiện có tới gần 40 làng nghề.
Kể từ khi Hà Nội cùng đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới, tốc độ tăng
trưởng kinh tế - xã hội khá mạnh mẽ, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng
ngày càng được mở rộng. Song, quá trình phát triển nhanh chóng này đã tạo đà cho
những biến đổi sâu sắc ở tất cả các lĩnh vực trong đó có sự biến đổi của các ngành
nghề truyền thống như nghề sơn theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Hai
làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Hà Nội đã có
nghề sơn truyền thống từ lâu đời và sớm khẳng định được vị trí riêng về chất lượng
kỹ thuật và mỹ thuật của các sản phẩm làm ra trong hệ thống các làng nghề sơn ở
châu thổ Bắc Bộ. Nằm ở hai huyện được đánh giá là những khu vực có sự phát triển
kinh tế khá năng động với mật độ làng nghề đông đảo nhất Hà Nội, có thể coi hoạt
động nghề ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng là những trường hợp thể hiện khá rõ nét
xu thế biến đổi nhiều mặt của nghề sơn truyền thống dưới tác động của các điều
kiện chủ quan và khách quan, đã và đang diễn ra rất phổ biến tại các làng nghề trên
địa bàn Thủ đô hiện nay. Sự biến đổi này là tất yếu và cần có để nghề sơn truyền
8
thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng có thể tiếp tục duy trì và phát triển trong bối
cảnh hiện nay. Trước những tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, trong khi nhiều làng nghề sơn truyền thống đã không thể tiếp tục duy trì
nghề như Bình Vọng (Hà Nội), Đình Bảng (Bắc Ninh)…, nghề sơn truyền thống tại
hai làng Bối Khê và Vũ Lăng cho đến nay vẫn hoạt động khá tốt nhờ có sự nhạy
bén, chủ động thay đổi các mặt hàng sản phẩm phù hợp với bối cảnh mới. Tuy
nhiên, trong quá trình vận động biến đổi, ngành nghề sơn cổ truyền cũng phải đối
mặt với không ít khó khăn thách thức mà nếu thiếu vai trò điều tiết của Nhà nước
chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động tự phát ở các làng nghề, nhiều giá trị có
nguy cơ bị mai một và mất đi trong một tương lai không xa.
Trước xu thế biến đổi nhiều mặt đã và đang diễn ra ngày càng sâu sắc của
nghề thủ công truyền thống ở khu vực Hà Nội, việc tìm hiểu, nắm bắt được sự vận
động biến đổi (bao gồm bản chất, tác nhân và hệ quả) của nghề sơn truyền thống ở
các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng, qua đó định hướng cho ngành nghề này phát
triển dựa trên các cứ liệu khoa học là một trong những yêu cầu cấp thiết và có ý
nghĩa thiết thực đối với sự nghiệp gìn giữ và phát huy di sản văn hóa dân tộc cũng
như công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh này, việc đi tìm và tôn
vinh những làng nghề truyền thống đang bị lu mờ dần trong tâm trí của người Việt
ở xã hội đương đại như các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng lại càng trở nên có ý
nghĩa hơn lúc nào hết.
Nghề sơn và làng nghề sơn vốn là đề tài khoa học có sức hấp dẫn với không
ít nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu dưới nhiều góc độ, phạm
vi và ở nhiều mức độ khác nhau. Trước tiên, có thể kể tới các bộ chính sử của nước
ta có đề cập những vấn đề liên quan đến nghề sơn như Đại Việt sử ký toàn thư [66,
67], Đại Nam nhất thống chí [92], Khâm định Việt sử thông giám cương mục [93]…
và các công trình nghiên cứu của người nước ngoài như Những cây sơn ở Đông
Dương của CH. Crevost [19], Sơn và dầu sơn Bắc Bộ - Trung Quốc - Nhật Bản của
G. Dumontier [39], Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 của William
9
Dampier [125], Miêu tả vương quốc Đàng Ngoài của Samuel Baron [95]. Đây có
thể coi đó là nguồn sử liệu gốc cần phải tiếp cận đầu tiên khi nghiên cứu về nghề
sơn nói chung và biến đổi nghề sơn nói riêng.
Thứ hai là những công trình nghiên cứu có ít nhiều thông tin đề cập đến nghề
và làng nghề sơn với ý nghĩa là giới thiệu khái quát về lịch sử ngành nghề này trong
tổng thể nhiều nghề thủ công truyền thống khác như Truyện các ngành nghề (Tạ
Phong Châu chủ biên) [18]; Lược truyện thần tổ các ngành nghề của Vũ Ngọc
Khánh [59], Nghề thủ công truyền thống và các vị tổ nghề của Trần Quốc Vượng và
Đỗ Thị Hảo [123]…
Tiếp đến là những công trình nghiên cứu chuyên sâu thiên về khảo tả chất
liệu, kỹ thuật của nghề sơn Việt Nam nói chung và nghề sơn ở các làng nghề truyền
thống nói riêng như Kỹ thuật sơn mài của Phạm Đức Cường [31]; Nghề sơn với
nghệ thuật trang trí ứng dụng ở Việt Nam của Trần Thị Tuyết Hạnh [40]; Tổng tập
nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam - Tập 6: Nghề chế tác đá, nghề sơn và
một số nghề khác do Trương Minh Hằng chủ biên [43]; Nghề sơn cổ truyền Việt
Nam của Lê Huyên [52]; Làng nghề sơn quang Cát Đằng của Nguyễn Lan Hương
[54]; Sơn mài Bình Dương - chất liệu và nghệ thuật thể hiện của Nguyễn Văn Minh
[73]; Kỹ thuật, chất liệu của sơn mài Việt Nam và Nhật Bản thế kỷ XX của Đặng
Thị Thu Hiền [44]; Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam của nhiều tác giả
[115] v.v...
Một số làng nghề làm sơn nổi tiếng ở khu vực Hà Nội đã thu hút được sự chú
ý của các nhà nghiên cứu với nội dung chủ yếu là khảo tả hoạt động của làng nghề
trong quá khứ và hiện tại như: Nghề sơn cổ truyền ở Bình Vọng và Hạ Thái của
Trương Duy Bích và Trương Minh Hằng [6]; Làng nghề Sơn Đồng của Trương Duy
Bích và Nguyễn Thị Hương Liên [7]; Nghề sơn truyền thống làng Hạ Thái - xã
Duyên Thái - huyện Thường Tín - tỉnh Hà Tây của Nguyễn Xuân Nghị [74]; Văn
hóa làng Hạ Thái của Hoàng Thị Tố Quyên [94] v.v...
Tìm hiểu nghề sơn và làng nghề sơn truyền thống ở Việt Nam dưới góc độ
biến đổi bước đầu là chủ đề quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Có thể kể đến ba
10
công trình tiêu biểu là những luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công, đều thuộc chuyên
ngành Văn hóa dân gian và chủ yếu sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên
ngành này như tiếp cận không gian văn hóa, tiếp cận thành tố văn hóa... Trước tiên
là luận án Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây của Nguyễn Xuân Nghị, được bảo vệ
năm 2008, công trình sau đó cũng được xuất bản thành sách có cùng tên [75]. Đối
tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội)
với hệ thống các làng nghề sơn đang và đã từng hoạt động trên địa bàn tỉnh, trong
đó tập trung khảo sát chủ yếu ba làng nghề được đánh giá là những làng nghề sơn
truyền thống tiêu biểu của tỉnh Hà Tây cũ là Bình Vọng, Hạ Thái và Sơn Đồng.
Nhìn tổng thể, công trình này đã phác họa thành công diện mạo nghề sơn truyền
thống tỉnh Hà Tây thông qua việc miêu tả khá chi tiết nghề sơn ở một số làng nghề
tiêu biểu. Đặc biệt, đóng góp đáng kể nhất của luận án là đề cập đến những biến đổi
đã và đang diễn ra ở nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây thông qua trường hợp ba
làng Bình Vọng, Hạ Thái và Sơn Đồng. Tác giả nhận định rằng: xét trên bình diện
rộng, nghề sơn ở Hà Tây trong lịch trình thời gian luôn có sự biến động. Có những
làng, nghề sơn được hình thành từ rất sớm xong lại bị lụi tàn, có làng thì nghề sơn
được tiếp nhận sau nhưng lại duy trì được và phát triển nhân rộng ra các làng mới.
Sự biến động của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội qua nhiều thời kỳ cũng đồng
hành với sự vận động, biến đổi của nghề sơn tỉnh Hà Tây ở nhiều khía cạnh như
biến đổi về hoạt động nghề, về kỹ thuật, về chất liệu, mẫu mã sản phẩm, về tư duy
hoạt động nghề, về kinh tế, xã hội, môi trường...
Tiếp theo sau công trình Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây của Nguyễn Xuân
Nghị là luận án Nghề sơn quang Cát Đằng (truyền thống và biến đổi) của Nguyễn
Lan Hương được bảo vệ năm 2009. Công trình này sau đó đã được xuất bản thành
sách dưới tên gọi Làng nghề sơn quang Cát Đằng xưa và nay [57]. Bằng cách áp
dụng các lý thuyết và phương pháp tiếp cận của chuyên ngành văn hóa dân gian, công
trình đã tái hiện diện mạo nghề và làng nghề sơn quang truyền thống Cát Đằng ( xã
Yên Tiến, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) trong sự vận động không ngừng theo thời
gian, qua đó đánh giá vị trí của làng nghề này trong hệ thống các làng nghề ở châu
11
thổ Bắc Bộ. Có thể coi đây là một trong những công trình khoa học đầu tiên nghiên
cứu một cách toàn diện về nghề sơn quang và làng nghề sơn quang Cát Đằng. Đây
cũng là một trong số ít công trình tiêu biểu mở đầu cho hướng nghiên cứu chuyên sâu
về sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở Việt Nam cũng như ở châu thổ Bắc Bộ
thông qua một trường hợp cụ thể là nghề sơn quang làng Cát Đằng.
Gần đây nhất, năm 2013, tác giả Lê Thanh Hương đã bảo vệ thành công luận
án Những thay đổi về kỹ thuật, chất liệu trong nghệ thuật sơn mài Việt Nam hiện đại
[58]. Với đối tượng nghiên cứu là những chất liệu và kỹ thuật sử dụng trong chế tác
sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề, cũng như trong sáng tác các tác phẩm
sơn mài hội họa của các họa sĩ chuyên nghiệp (đặc biệt tập trung nghiên cứu giai
đoạn từ năm 1925 đến nay), nhìn tổng thể, công trình này đã trình bày tương đối
toàn diện và hệ thống những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật sơn mài Việt Nam
cùng vai trò và vị trí của nó trong nền văn hóa dân tộc. Ở góc độ cụ thể hơn, luận án
đã hệ thống hóa khá rõ nét những thay đổi của chất liệu và kỹ thuật của nghề sơn
qua các giai đoạn khác nhau dưới tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan.
Đồng thời, xác định rõ hai yếu tố này là những yếu tố căn bản tạo nên sức sống, bản
sắc của nghề sơn truyền thống cũng như có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng,
sáng tạo của các nghệ nhân và nghệ sĩ sơn mài. Trên cơ sở đó, luận án đi đến khẳng
định rằng: sự vận động, biến đổi là quy luật khách quan, yếu tố tạo nên sự đa dạng
và phát triển, thể hiện sức sáng tạo phong phú của các thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân.
Kết quả nghiên cứu của luận án này đã góp phần bổ sung vào mảng chủ đề nghiên
cứu về sự biến đổi của nghề sơn trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam.
Có thể kết luận, mặc dù việc nghiên cứu nghề sơn truyền thống không phải là
mảng vấn đề mới song vẫn còn khoảng trống để các công trình tiếp theo nghiên cứu
bổ sung. Bởi lẽ, nghề sơn truyền thống ở một vài địa phương vẫn chưa được quan
tâm tìm hiểu để tương xứng với tiềm năng của ngành nghề cổ truyền này, trong đó
nghề sơn ở các làng Bối Khê - huyện Phú Xuyên và Vũ Lăng - huyện Thanh Oai là
những trường hợp tương đối điển hình. Hai làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng cho đến
thời điểm hiện tại hầu như chưa được nghiên cứu ngoại trừ việc được nhắc đến có
12
tính chất liệt kê, điểm qua ở một số công trình như Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà
Tây của Nguyễn Xuân Nghị [75], bài viết Hà Tây với truyền thống sơn mài của
Nguyễn Văn Chuốt [26] và một số bài trên Internet với nội dung giới thiệu đôi nét
về làng nghề trong hoạt động quảng bá du lịch.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đã trình bày trên đây, tôi lựa
chọn đề tài Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê (huyện Phú
Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố Hà Nội hiện nay làm luận án tiến
sĩ chuyên ngành Văn hóa học. Hy vọng rằng, từ quan điểm tiếp cận liên ngành, việc
tìm ra được bản chất, nguyên nhân và cơ chế biến đổi của nghề sơn truyền thống ở
trường hợp các làng nghề cụ thể là Bối Khê và Vũ Lăng sẽ giúp định hướng cho
ngành nghề cổ truyền này có thể tồn tại, thích nghi và phát triển trong xu hướng
biến đổi tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một xã hội đang
chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp như Việt Nam. Đề tài luận án
là sự bổ sung cần thiết vào những khoảng trống nghiên cứu về nghề sơn truyền
thống ở châu thổ Bắc Bộ nói chung và khu vực Hà Nội nói riêng theo hướng nghiên
cứu trường hợp cụ thể, chuyên sâu - là hướng nghiên cứu đang được ưu tiên trong
khoa học xã hội nhân văn hiện nay. Ở một mức độ nào đó, kết quả nghiên cứu của
luận án sẽ có giá trị gợi ý và làm cơ sở so sánh ở những nghiên cứu tương tự về
nghề sơn truyền thống tại các làng nghề khác. Sau cùng, luận án là sự tiếp nối các
công trình nghiên cứu về nghề sơn (ở Việt Nam và trên thế giới) của nghiên cứu
sinh từ năm 2004 đến nay.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
- Luận án chứng minh sự biến đổi là quy luật tất yếu khách quan để nghề sơn
truyền thống ở các làng nghề như Bối Khê và Vũ Lăng có thể duy trì và phát triển
trong bối cảnh đương đại.
- Luận án hướng đến xác lập những căn cứ khoa học và thực tiễn để tham khảo
định hướng cho nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề phát triển trong tương lai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
13
- Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến nghề sơn truyền thống ở Việt
Nam, khu vực Hà Nội và các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng.
- Tìm hiểu diện mạo của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ
Lăng, Hà Nội trong diễn trình lịch sử bao gồm các yếu tố như nguồn gốc xuất hiện,
kỹ thuật chế tác, cơ cấu tổ chức nghề, tâm lý làm nghề…
- Xác định những giá trị tiêu biểu của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối
Khê và Vũ Lăng, Hà Nội; đối chiếu, so sánh với nghề sơn ở các làng nghề khác của
Hà Nội nói riêng và vùng châu thổ Bắc Bộ nói chung, qua đó làm rõ những nét riêng
biệt và những đóng góp của nghề sơn ở hai làng này cho di sản văn hóa dân tộc.
- Phân tích những biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và
Vũ Lăng, Hà Nội dưới tác động của cơ chế thị trường và quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa - mà thực chất đó là sự va chạm giữa truyền thống - hiện đại, thích nghi
- biến đổi, bảo tồn - phát triển.
- Xây dựng luận cứ khoa học trong việc định hướng để nghề sơn truyền
thống ở các làng Bối Khê, Vũ Lăng nói riêng cũng như các làng nghề khác ở khu
vực Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ nói chung có thể duy trì và phát triển trong thời
điểm hiện tại và tương lai theo hướng: trên cơ sở gìn giữ, kế thừa các giá trị truyền
thống vốn có, tiếp thu những thành tựu hiện đại, tiên tiến để sáng tạo những giá trị
mới phù hợp với thời đại mới, qua đó bổ sung và làm đa dạng thêm bản sắc văn hóa
dân tộc, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ Đổi mới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống ở các làng Bối
Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội trong quá trình
vận động, biến đổi theo thời gian để thích nghi tồn tại. Đây vốn là hai làng nghề sơn
có lịch sử khá lâu đời và đã khẳng định được đặc trưng riêng ở các kỹ thuật cơ bản
của nghề sơn truyền thống là sơn mài, sơn thếp và sơn quang. Tuy nhiên, để làm rõ
diện mạo và sự đóng góp của nghề sơn ở các làng nghề trên, luận án sẽ mở rộng tìm
hiểu nghề sơn truyền thống ở một số làng khác trong khu vực Hà Nội cũng như vùng
14
châu thổ Bắc Bộ dưới góc nhìn liên hệ, so sánh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê (xã Chuyên
Mỹ, huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội
trong bối cảnh các làng nghề sơn vùng châu thổ Bắc Bộ.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu, tìm hiểu nghề sơn truyền thống ở hai làng
Bối Khê và Vũ Lăng từ năm 1945 đến nay (2013) với các mốc thời gian cụ thể gắn
với những biến đổi trong nghề sơn truyền thống ở hai làng.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp tiếp cận
4.1. Cơ sở lý luận
4.1.1. Một số khái niệm thao tác
Nghề sơn truyền thống
Ở Việt Nam cho đến nay, đã có nhiều học giả đưa ra quan niệm về nghề
truyền thống như Mai Thế Hởn, Bùi Văn Vượng, Trần Minh Yến… Qua tổng hợp
chúng tôi nhận thấy hầu hết các ý kiến đều thống nhất với nhau ở những tiêu chí của
một ngành nghề thủ công truyền thống, đó là: Đã hình thành, tồn tại và phát triển
lâu đời ở nước ta; Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề, xã nghề;
Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề; Có kỹ thuật và công
nghệ truyền thống; Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ
yếu; Sản phẩm làm ra vừa có tính hàng hóa, vừa có tính nghệ thuật, thậm chí trở
thành các di sản văn hóa mang bản sắc văn hóa Việt Nam; Là nghề nghiệp nuôi
sống một bộ phận dân cư của cộng đồng, có đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà
nước [47, tr.16-17], [124, tr.11-12], [126, tr.11].
Trong số nhiều quan niệm về nghề truyền thống, chúng tôi đã lựa chọn và sử
dụng khái niệm nghề truyền thống được tổng hợp và nêu ra bởi tác giả Trần Minh
Yến như là một trong những cơ sở lý luận của luận án.
Nghề truyền thống bao gồm những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện
từ lâu trong lịch sử, được truyền từ đời này qua đời khác còn tồn tại đến
ngày nay, kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng những loại