Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

So sánh và ẩn dụ trong thơ nguyễn bính.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
NGUYỄN THÙY LINH
So sánh và ẩn dụ trong thơ Nguyễn Bính
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2
MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Nghìn sao lấp lánh trên trời
Ngôi sao Nguyễn Bính vẫn ngời trong đêm
Vẫn ngời bởi những niềm tin
Vẫn ngời bởi vẫn còn nghìn nhớ thương.
(Hoàng Tấn)
Vậy là đã hơn 45 năm kể từ ngày Nguyễn Bính tạ từ nhân thế để vĩnh viễn
đi vào cõi hư ảo. Đất mẹ mở ra đón nhà thơ vào lòng nhưng ông vẫn mãi mãi
sống với giậu mồng tơi, bến nước, con đò, với hương đồng gió nội, với cuộc
sống làng quê mà người suốt đời nặng duyên nặng nợ. Qua sự thử thách khắc
nghiệt của thời gian, những bài thơ của Nguyễn Bính vẫn neo đậu vững vàng
trong lòng người đọc. Điều ấy chính là minh chứng rõ ràng nhất khẳng định tài
năng của nhà thơ.
Cùng với Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính là một trong ba đỉnh
cao của Thơ mới, sừng sững như Tam Đảo, Ba Vì, tạo nên thế chân kiềng vững
vàng cho một thời đại rực rỡ nhất của thi ca. Vị trí của Nguyễn Bính trong phong
3
trào Thơ mới nói riêng và nền thi ca Việt Nam nói chung đã được xác định.
Nhưng nghiên cứu về Nguyễn Bính và nghệ thuật thơ của ông vẫn là một nguồn
mạch cần được tiếp tục khơi dòng.
Từ những năm trước cách mạng, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét
Nguyễn Bính mang một hồn thơ “quê mùa”, Nguyễn Bính cũng tự nhận mình là
“thi sĩ của thương yêu”. Và những người bình thơ cũng như những nhà nghiên
cứu sau này khi đi tìm hiểu về Nguyễn Bính cũng đã cùng gặp nhau ở những
luận điểm: Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê, thi sĩ nhà quê, thi sĩ của đồng quê,
của hồn quê, tình quê, là thi sĩ của yêu thương…Những kết luận đó phần lớn
được các nhà nghiên cứu rút ra từ thế giới nghệ thuật và đề tài mà Nguyễn Bính
hướng tới trong thơ mà ít chú ý đến phần ngôn ngữ thơ. Sự thiên lệch ấy phải
chăng là một thiếu sót của chúng ta khi nghiên cứu về thơ ông?
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy trong thơ Nguyễn Bính sử dụng rất
nhiều những biện pháp tu từ cấu tạo theo quan hệ liên tưởng, trong đó nổi bật
nhất là biện pháp so sánh và ẩn dụ tu từ. Và đối tượng được liên tưởng đến trong
hai phép tu từ ấy bao giờ cũng là chuẩn mực của đời sống nông thôn Việt Nam.
Như vậy, nếu giải mã được cơ chế cấu tạo của những biện pháp tu từ này trong
thơ Nguyễn Bính, chúng ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp chân quê từ góc độ tư duy
nghệ thuật của nhà thơ. Với đề tài “So sánh và ẩn dụ trong thơ Nguyễn Bính”
người viết hi vọng sẽ đóng góp một cái nhìn mới trong việc tìm hiểu vẻ đẹp thơ
Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ.
Hơn thế nữa, xuất phát từ thực tiễn giáo dục, là một người đang theo học
ngành sư phạm, chúng tôi nhận thấy cách tiếp cận tác phẩm từ góc độ ngôn ngữ
là một quy trình bắt buộc. Nhưng có một thực tế đã thành lối mòn xưa nay là
cách tiếp cận nặng về nội dung văn bản, xem nhẹ nghệ thuật ngôn từ. Vậy nên
4
rèn luyện cho học sinh hình thành thói quen phân tích, đánh giá tác phẩm từ góc
nhìn ngôn ngữ là việc làm hết sức có ý nghĩa đối với một giáo viên giảng dạy bộ
môn ngữ văn.
Với những lí do trên cùng với niềm thiết tha của kẻ hậu sinh muốn tìm
hiểu về một trong những đỉnh cao của thơ ca, tôi đã quyết định chọn đề tài “So
sánh và ẩn dụ trong thơ Nguyễn Bính” làm đề tài luận văn cuối khóa của mình.
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc tìm hiểu về các phương tiện biểu cảm của ngôn ngữ từ lâu đã là một
đề tài nghiên cứu hấp dẫn đối với các nhà ngôn ngữ học. Trên thế giới, người ta
đã nghiên cứu về các biện pháp tu từ từ rất sớm. Từ những năm trước Công
nguyên, nhà triết học, nhà hùng biện lỗi lạc của Hi Lạp là Arixtốt đã đặt nền
móng đầu tiên cho việc nghiên cứu các biện pháp tu từ trong thi ca. Trong cuốn
Thi học nổi tiếng của mình, Arixtốt đã gọi tên khả năng kết hợp ngôn ngữ theo
quan hệ liên tưởng theo tiếng La Tinh là Figura (ngữ hình), nghĩa là hình thức
bóng bẩy. Arixtốt cũng tổng kết những Figura chủ yếu, có tính phổ dụng là: So
sánh (similis), ẩn dụ (metaphoria), hoán dụ (metonymia), khoa trương
(hyperbole)…
Ở Việt Nam, so sánh và ẩn dụ là những phương thức tu từ được nghiên
cứu trong nhiều thế kỉ và từ nhiều góc độ khác nhau. Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu
Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc… đã nghiên cứu so
sánh và ẩn dụ dưới tư cách là hiện tượng của ngôn ngữ văn chương. Gần đây,
trên thế giới bắt đầu xuất hiện một quan niệm mới nghiên cứu mối quan hệ giữa
ẩn dụ và tư duy. Tiếp thu những phát triển mới này của ngôn ngữ học hiện đại,
5
trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về ẩn dụ dưới
góc nhìn tri nhận. Đó là các công trình như: Ngôn ngữ học tri nhận từ lí thuyết
đại cương đến tư duy thực tiễn Tiếng Việt của Lý Toàn Thắng, Ngôn ngữ học tri
nhận (ghi chép và suy nghĩ) của Trần Văn Cơ, Đặc trưng văn hóa dân tộc của
ngôn ngữ và tư duy của Nguyễn Đức Tồn …
Bên cạnh đó việc nghiên cứu các phương thức tu từ gắn với sáng tác của
một tác giả nào đó cũng là công việc thu hút không ít các nhà nghiên cứu. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu, luận văn viết về vấn đề này.
Nhà thơ Nguyễn Bính là người đã biết tìm cho mình một lối đi riêng, thơ
ông với rất nhiều chất mộng, chất lãng mạn nhưng lại không giống với các nhà
Thơ mới khác. Chính cái nét rất riêng ấy mà thơ Nguyễn Bính cứ vương vấn mãi
trong lòng người đọc, thu hút được rất nhiều nhà nghiên cứu.
Từ những năm trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Bính đã là một trong
số ít nhà thơ được giới phê bình chú ý đến. Nhà phê bình Hoài Thanh, Hoài
Chân trong Thi nhân Việt Nam đã lần đầu tiên gọi tên hồn thơ Nguyễn Bính là
hồn thơ “quê mùa”. Đồng thời Hoài Thanh cũng khẳng định sức sống mãnh liệt
của hồn thơ ấy trong cái xã hội Âu hóa đảo điên lúc bấy giờ “Người nhà quê
Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường” [13, tr.135].
Từ năm 1975 cho đến nay, điều kiện xã hội phát triển nên tính chuyên
nghiệp trong vấn đề nghiên cứu văn học được nâng lên. Qua một độ lùi nhất định
của thời gian nên người ta có cái nhìn đúng đắn và sáng suốt hơn với văn chương
thời kì trước. Và lúc này, các nhà nghiên cứu chú ý hơn đến những tác giả đã
khẳng định được tài năng và giá trị của mình, Nguyễn Bính và thơ ông được
quan tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện.
6
Thời gian đầu các công trình nghiên cứu về Nguyễn Bính thường xuất
hiện dưới dạng các bài báo như: Nguyễn Bính – nhà thơ kháng chiến (Thái
Bạch), Nguyễn Bính – một thi sĩ suốt đời mắc bệnh tương tư (Vũ Bằng), Một số
đặc điểm nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính (Hồng Diệu) Khối tình lỡ của người
chân quê (Nguyễn Đăng Điệp), Nguyễn Bính – Nhà thơ hiện đại (Trần Mạnh
Hảo), Nguyễn Bính trong nền thơ Việt Nam (Vũ Quần Phương)…
Càng về sau cái tên Nguyễn Bính càng được nhắc nhiều trong những công
trình nghiên cứu đồ sộ cũng như nhiều chuyên luận lớn nhỏ khác như: Thơ và lời
bình (Vũ Quần Phương, 1992), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca (Hà
Minh Đức, 1993), Ngôn ngữ thơ (Nguyễn Phan Cảnh, 2001)… Ba đỉnh cao Thơ
mới: Xuân Diệu – Nguyễn Bính – Hàn Mặc Tử (Chu Văn Sơn) là công trình
nghiên cứu viết về ba đại diện tiêu biểu của phong trào Thơ mới là Xuân Diệu,
Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử. Trong cuốn sách này, Nguyễn Bính được đánh giá
là nhà thơ “quen nhất”, là “thi sĩ của thương yêu”, người khởi xướng “dòng thơ
quê”.
Các bài viết, chuyên luận và công trình nghiên cứu về Nguyễn Bính cũng
được sưu tầm, biên soạn thành những cuốn sách quy mô đồ sộ như: Nguyễn Bính
– Thi sĩ của thương yêu (Hoài Việt sưu tầm và biên soạn), Nguyễn Bính – Thơ và
đời (Hoàng xuân sưu tầm và biên soạn). Đặc biệt cuốn sách Nguyễn Bính, về tác
gia và tác phẩm (Hà Minh Đức, Đoàn Đức Phương tuyển chọn) đã giới thiệu
những công trình nghiên cứu về Nguyễn Bính ngay từ lúc Nguyễn Bính mới xuất
hiện cho đến khi ông qua đời.
Mặc dù đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về Nguyễn Bính
cùng ngôn ngữ và nghệ thuật thơ của ông nhưng tất cả đều thống nhất: Nguyễn
Bính là nhà thơ “chân quê” nhà thơ của “hồn quê”, “tình quê”…Trong một thời