Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

So sánh văn xuôi tự sự của Lỗ Tấn và Nam Cao
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘGIÁODỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
______________________
LƯ CẨM ANH
SO SÁNH VĂN XUÔI TỰ SỰ
CỦA LỖ TẤN VÀ NAM CAO
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. Trần Đăng Xuyền
Hà Nội, 2013
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong nền văn học Trung Quốc, Lỗ Tấn là nhà tư tưởng của cách mạng,
nhà văn nghệ mở đầu cho cả một thời đại, là nhà khoa học lịch sử thực sự cầu thị,
nhà giáo dục gương mẫu, là người quốc tế chủ nghĩa thiết tha mong nhân loại được
giải phóng. Thành tựu mọ i m ặt đều có thể khiến Lỗ Tấn trở nên bất hủ và dường
như những thành tựu của ông kết hợp một cách hài hòa với nhau, kết tinh thành một
nhà văn hóa lớn của dân tộc. Không nghi ngờ gì nữa, ảnh hưởng của ông ngày càng
rộng, càng sâu.
Trong văn học thế giới, đạt được một địa vị vinh quang như Lỗ Tấn quả không
nhiều. Lỗ Tấn được coi là người đặt nền móng cho nền văn học mới, là người tiên
phong, mở đường trong việc hiện đại hóa nền văn học Trung Quốc. Với hai tập
truyện ngắn Gào thét và Bàng hoàng, Lỗ Tấn đã xác lập cho mình một vị trí quan
trọng trong nền văn học hiện đại. ―Không có Gào thét, Bàng hoàng của Lỗ Tấn, thì
sẽ không có bước vững chắc nhất trong giai đoạn thứ nhất trên hành trình hiện đại
hóa tiểu thuyết Trung Quốc, tiểu thuyết Lỗ Tấn có ý nghĩa vạch thời đại trên lịch sử
văn học Trung Quốc đã được thể hiện ở đó‖[90 ;117].
Lỗ Tấn có mộ t vị trí quan trọ ng trong nền văn họ c thế giới . Trong thập niên 20
của thế kỷ XX , những tiểu thuyết củ a Trung Quốc đư ợc người nước ngoài dịch ra
hầu hết là tác phấm của Lỗ Tấn . Hiện nay, hầu như các nước trên thế giới đều đã
dịch AQ chính truyện . Tác phẩm của Lỗ Tấn đã được dịch sang hơn 12 thứ tiếng
trên thế giới như : Nga, Nhật, Đức, Tây Ban Nha , Triều Tiên, A- rập, Thái Lan... Ở
Việt Nam, năm 1944, tác phẩm Lỗ Tấn đã đựợc GS. Đặng Thai Mai dịch và giới
thiệu đến bạn đọc qua tập tiểu luận Lỗ Tấn, thân thế văn nghệ do nhà xuất bản Thời
đại ấn hành. Từ đó đến nay, nghiên cứu về Lỗ Tấn đã đạt được những thành tựu lớn
với nhiều chuyên luận như: Lỗ Tấn, thân thế văn nghệ (Đặng Thai Mai, Nxb Thời
đại năm 1944), Lỗ Tấn chủ tướng của cách mạng văn hoá Trung Quốc (Lê Xuân
Vũ, Nxb 1958), Lỗ Tấn nhà lý luận văn học (Phương Lựu, Nxb Đại học và THCN,
1977)… Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu cũng chọn Lỗ Tấn làm đề tài tốt nghiệp
tiến sỹ, thạc sỹ của mình, tiêu biểu là các luận án tiến sỹ Thi pháp truyện ngắn Lỗ
Tấn (Lê Huy Tiêu, 1988), Nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn (Trần Lê Hoa Tranh,
2006), Nghệ thuật tự sự của Lỗ Tấn qua hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng
hoàng” (Nguyễn Thị Mai Chanh, 2008). Cùng với các chuyên luận, luận án tiến sỹ
là các bài viết đăng trên các tạp chí uy tín cũng như nhiều luận văn thạc sỹ trong các
trường đại học có khoa Ngữ văn hoặc khoa Ngôn ngữ và văn hoá Trung Quốc. Điều
3
này chứng tỏ Lỗ Tấn có một sức hút lớn đối với độc giả Việt Nam.
1.2. Nam Cao là một nhà văn hiện thực có vị trí quan trọng trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1930-1945, đặc biệt là trong trào lưu văn học hiện thực phê phán.
―Tác phẩm của Nam Cao phần lớn ra đời trong những năm chiến tranh thế giới lần
thứ hai, đánh dấu bước phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong một
thời kỳ tưởng chừng như bế tắc‖[58; 471]. Sáng tác của ông đã vượt qua được
những thử thách khắc nghiệt của thời gian, đúng như một nhà nghiên cứu nhận xét
"càng thử thách lại càng ngời sáng". Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao
cùng tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp của nghệ thuật điêu luyện, độc đáo càng
chứng minh được sức mạnh nghệ thuật to lớn của nó.
Gần nử a thế k ỷ qua, con người và tác phẩm củ a Nam Cao đã thu hút sự chú ý
của các nhà nghiên cứu , lý luận, phê bình, cùng với mộ t khối lượ ng độ c giả tương
đối lớn. Có thể nói, Nam Cao là mộ t trong số những nhà văn lớn củ a thế kỷ XX
đượ c nghiên cứu nhiều nhất và đ ạt thành tựu rực rỡ nhất tại Việt Nam với hơn 200
công trình nghiên cứu lớn nhỏ .
1.3. Như vậy, Lỗ Tấn và Nam Cao là những nhà văn có vị trí quan trọng trong
nền văn học hiện đại Trung Quốc và Việt Nam. Tìm hiểu văn xuôi tự sự Trung Quốc
và Việt Nam, không thể không nghiên cứu sáng tác của hai cây bút bậc thầy này.
Sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao, từ đề tài, chủ đề, tư tưởng đến hình thức nghệ
thuật, có những nét tương đồng, và tất nhiên cũng có nhiều điểm khác biệt cơ bản,
tạo nên phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Lựa chọn đề tài So sánh văn xuôi
tự sự của Lỗ Tấn và Nam Cao, chúng tôi mong muốn được góp phần tìm hiểu sâu
hơn giá trị tư tưởng, nghệ thuật sáng tác của mỗi nhà văn, qua đó, nhận thức đầy đủ
và sâu sắc hơn những cống hiến vẻ vang của họ đối với tiến trình lịch sử của mỗi
dân tộc. Chúng tôi hy vọng, qua việc khám phá những nét tương đồng và những sác
thái khác nhau của văn xuôi Lỗ Tấn và Nam Cao, có thể đưa Nam Cao đến gần hơn
với đọc giả Trung Quốc cũng như giúp độc giả Việt Nam có có thể biết thêm nhiều
hơn nữa về nhà văn bậc thầy Lỗ Tấn của Trung Quốc. Đây cũng là việc làm thiết
thực để chúng tôi có thể giảng dạy tốt hơn văn học Việt Nam, góp phần giữ gìn và
phát triển tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc.
1. Lịch sử vấn đề
Vấn đề nghiên cứu Lỗ Tấn và Nam Cao đã đư ợc các nhà nghiên cứu Trung
Quốc và Việt Nam nghiên cứu tương đối hệ thống qua hàng trăm, hàng ngàn công
trình có uy tín. Tuy nhiên, theo tài liệu mà chúng tôi có được, việc so sánh Lỗ Tấn
và Nam Cao chỉ xuất hiện qua một vài bài báo có tính chất đơn lẻ hoặc một vài luận
văn tốt nghiệp đại học, thạc sỹ ở Việt Nam. Ở Trung Quốc chưa có công trình
4
nghiên cứu so sánh nào về hai nhà văn này. Có thể kể ra đây công trình của Phạm
Tú Châu với bài viết Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ đăng trên Tạp chí văn
học số 1 năm 1992. Trong bài viết này, nhà nghiên cứu đã chỉ ra một vài điểm tương
đồng và khác biệt ở hai nhân vật bất hủ của hai nền văn học. Qua việc phân tích hai
nhân vật AQ và Chí Phèo, Phạm Tú Châu đi đến nhận định: ―Lỗ Tấn và Nam Cao
cùng cho thấy hành động phản kháng của cả hai nhân vật đều chưa được ánh sáng
của trí tuệ, của lý tính soi rọi, chỉ là những cơn cảm tính bốc hoả lên đầu, những
xung động thần kinh, cho nên không nhằm một mục đích nào lớn hơn là miếng ăn,
rượu uống hàng ngày cho riêng mình‖[18; 46]. Nhà nghiên cứu cũng lí giải về sự
xuất hiện của hai nhân vật này là mang tính tất yếu: ―Trong một xã hội nào cũng vậy,
hễ có AQ ắt có Chí Phèo và ngược lại. Hai tính cách tưởng như đối lập này lại thống
nhất với nhau, bổ sung cho nhau khiến cho bức tranh về xã hội nông thôn sản xuất
nhỏ và thành thị nông thôn cũng dạng như thế thêm sinh động, phong phú‖[18; 47].
Bài nghiên cứu nhìn chung đã chỉ ra được những nét cơ bản nhất về hai nhân vật bất
hủ AQ và Chí Phèo. Chúng tôi sẽ trở lại bài viết này trong quá trình triển khai luận
án. Trong chuyên luận Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Trần Đăng Suyền viết: ―Vẫn
còn tồn tại ý kiến cho rằng Chí Phèo được viết dưới ảnh hưởng của A.Q.chính
truyện. Song, trong thực tế, khi Nam Cao viết Chí Phèo (1941) thì thiên truyện vừa
nổi tiếng của Lỗ Tấn chưa được dịch ra tiếng Việt. Và Nam Cao, theo sự làm chứng
của Tô Hoài – người bạn thân thiết, gần gũi của ông – còn chưa biết tới tác phẩm đó.
Nhưng sự gần gũi giống nhau về loại hình của hai tác phẩm được nảy sinh từ những
hoàn cảnh lịch sử xã hội giống nhau, từ những xung đột cuộc sống có phần tương tự
như nhau là không thể nghi ngờ. Trong những tác phẩm viết về nông dân,Chí Phèo
là một hiện tượng nổi bật, kết tinh tư tưởng và tài năng nghệ thuật của Nam cao,
xứng đáng là một kiệt tác trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam‖[83,153-154]. Luận
văn thạc sỹ của Trần Lê Hoa Tranh với đề tài Tìm hiểu những điểm tương đồng và
dị biệt về mặt thi pháp nhân vật phụ nữ trong truyện Lỗ Tấn và Nam Cao (Đại học
KHXH và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh năm 1998) là một công trình nghiên cứu dày
dặn nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc so sánh thi pháp nhân vật phụ nữ. Nhìn chung,
giới nghiên cứu Việt Nam thừa nhận truyện ngắn của Lỗ Tấn và Nam Cao có sự
tương đồng rất lớn nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống. Đó
chính là không gian của Luận án của chúng tôi.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Bản luận án của chúng tôi đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nêu những nét khái quát về bối cảnh của nền văn học hiện đại Trung Quốc và
Việt Nam để làm rõ cơ sở xuất hiện các nhà văn Lỗ Tấn (Trung Quốc) và Nam Cao
5
(Việt Nam); chỉ ra sự tương đồng và cả sự khác biệt về vị trí, tầm vóc của từng nhà
văn đối với nền văn học hiện đại của mỗi dân tộc.
- Trên cơ sở phân tích các sáng tác cụ thể, luận án tập trung vào việc chỉ ra các
điểm giống và khác nhau trong sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao về phương diện
nội dung và phương diện nghệ thuật; đồng thời, lý giải vì sao lại có sự giống nhau
và khác nhau như vậy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do mục tiêu của luận án, ở công trình này, chúng tôi chỉ tập trung vào vi ệc so
sánh sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao qua truyện ngắn và truyện vừa. Cụ thể là,
qua các t ập Gào thét, Bàng hoàng của Lỗ Tấn với tổng cộng 25 truyện và toàn bộ
truyện ngắn củ a Nam Cao trước cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngoài ra, để có được cái nhìn toàn diện về sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn và
Nam Cao cũng như thấy rõ đượ c tính đa dạng , phong phú củ a các trào lưu văn họ c
hiện thực Trung Quốc và Việt Nam, luận án cũng tiến hành so sánh , đối chiế u với
một số tác phẩm cùng thời củ a những nhà văn Trung Quốc và Việt Nam khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được hiệu quả cao trong triển khai đề tài, luận án của chúng tôi sử dụng
phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp so sánh lịch sử - loại hình: Đây là phương pháp sử dụng nhiều
nhất và phù hợp nhất trong việc so sánh Lỗ Tấn và Nam Cao. Vận dụng phương
pháp nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đặt sáng tác của hai nhà văn trong bối cảnh lịch
sử xã hội hai nhà văn sinh sống, vào sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện
thực trong tiến trình văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam. Từ đó giúp người
viết có thể tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong sáng tác của hai nhà
văn này.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này được dùng để phân tích
các dẫn chứng, từ đó, tổng hợp, khái quát thành các luận điểm, luận cứ. Việc so
sánh sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao được nghiên cứu trên nhiều phương diện, từ
nội dung đến hình thức. Vì vậy, cần đi sâu phân tích từng phương diện đó, đồng thời,
cũng cần phải có sự tổng hợp khái quát hóa để có nhận xét tổng quát về nó, để chỉ
ra những vấn đề tương đồng và dị biệt về mặt thi pháp sáng tác của hai nhà văn.
- Phương pháp hệ thống: Sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao, được nhìn nhận
như những hệ thống, được cấu trúc bởi nhiều yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ, tương
hỗ lẫn nhau. Vì vậy, so sánh sáng tác của hai nhà văn này không thể không vận
dụng phương pháp hệ thống. Những vấn đề cụ thể trong sang tác của hai nhà văn
này được triển khai trong luận án vì vậy luôn được đặt trong mối quan hệ hệ thống.
6
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án chính là công trình đầu tiên đặt ra vấn đề so sánh một cách hệ thống về
sáng tác của hai nhà văn: Lỗ Tấn và Nam Cao. Trên cơ sở bối cảnh của hai nền văn
học hiện đại Trung Quốc và Việt Nam, thông qua việc phân tích các sáng tác cụ thể
của hai nhà văn, bản luận án đã chỉ ra, đồng thời có những kiến giải về sự giống và
khác nhau ở các phương diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của hai nhà văn.
Luận án cũng góp phần làm phong phú thêm lịch sử nghiên cứu Lỗ Tấn và Nam
Cao, đặc biệt ở lĩnh vực văn học so sánh, có ý nghĩa quan trọng đối với việc giao
lưu văn học, văn hóa giữa hai quốc gia. Qua đó, luận án cũng góp phần thiết thực
vào việc tìm hiểu nền văn học hiện đại của Trung Quốc và Việt Nam, vun đắp và
củng cố tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, Luận án của chúng tôi
gồm 3 chương:
Chương 1: Sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao trong bối cảnh nền văn học hiện
đại Trung Quốc và Việt Nam
Chương 2: Nội dung tư tưởng của văn xuôi tự sự Lỗ Tấn và Nam Cao
Chương 3: Hình thức nghệ thuật của văn xuôi tự sự Lỗ Tấn và Nam Cao
7
Chương 1
SÁNG TÁC CỦA LỖ TẤN VÀ NAM CAO
TRONG BỐI CẢNH NỀN VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM
1.1. Khái quát tình hình văn học hiện đại Trung Quốc từ 1919 đến 1949 và văn
học hiện đại Việt Nam từ 1900 đến 1945
1.1.1 .Bối cảnh chung
Có thể nói, trước thế kỉ XX, chưa từng có một nền văn học nào như văn học
phương Tây đã va đập vào văn học của Trung Quốc mạnh như vậy, và có sự ảnh
hưởng tới mức không có chỗ nào là không len lỏi vào. Cho đến nay, văn học của các
nước thế giới vẫn đang chịu sự ảnh hưởng của văn học Âu Mỹ. Nhà văn Trung
Quốc vẫn tự giác hoặc không tự giác, trực tiếp và gián tiếp tiếp nhận văn học
phương Tây.
Khi đại bác của các cường quốc mở ra cánh cửa Trung Quốc, văn học không thể
không chịu sự ảnh hưởng của văn học phương Tây, nhất là cánh cửa rộng mở như
văn học cách mạng ―Ngũ Tứ‖, văn học phương Tây đã như những trận hồng thủy
tràn vào văn học truyền thống Trung Quốc. Văn học cách mạng ―Ngũ Tứ‖ mạnh
dạn tiếp thu văn học phương Tây, lấy tiếng nói không ôn hòa của văn học phương
Tây đối lập, phủ nhận tiếng nói ôn hòa của truyền thống Trung Quốc (Lỗ Tấn).
Dưới ảnh hưởng của văn học nước ngoài, văn học hiện đại Trung Quốc phát
triển mạnh mẽ. Sự ảnh hưởng này to lớn và sâu sắc từ lý luận đến sáng tác và khắp
các lĩnh vực như: thơ ca, tiểu thuyết, kịch, tản văn và phong trào văn học, đến cả
tuyệt đại đa số tác gia, thậm chí mấy thế hệ tác gia và hơn nữa, xuyên suốt các thời
kỳ của lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc.
Mác có nói: ―Trình độ thực hiện của lí luận ở một quốc gia, quyết định vào lí
luận đã thỏa mãn trình độ nhu cầu của quốc gia này‖ . Khi phong trào văn học hiện
đại Trung Quốc bùng nổ, Trung Quốc đã rơi vào một xã hội nửa phong kiến nửa
thuộc địa, cách mạng Tân Hợi đã tuyên cáo thất bại, xã hội sa đọa thối nát, cần tiến
hành sự cải tạo triệt để. Trung Quốc đang nằm trong cái nôi lịch sử của cách mạng
chủ nghĩa dân chủ mới và cũ. Trào lưu tư tưởng và văn học của nó lấy hạt nhân là tự
do dân chủ của giai cấp tư sản phương Tây đang trong thời kỳ phát triển. Chủ nghĩa
Mác Lê-nin mang thế giới quan và văn học của giai cấp vô sản quốc tế đều thích
hợp với nhu cầu cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới của Trung Quốc chống đế quốc
và chống phong kiến một cách triệt để ở các mức độ khác nhau, thích hợp cho nhu
cầu của văn học cách mạng và cách mạng văn học. Vì vậy, những trào lưu văn học
8
đó đã được giới thiệu rất nhanh chóng đến Trung Quốc, ảnh hưởng đến cách mạng
Trung Quốc và tác gia hiện đại Trung Quốc. Về mặt khách quan, việc cải tạo Trung
Quốc cũ cũng cần tư tưởng lý luận và văn học mới; về mặt chủ quan, nhà văn hiện
đại Trung Quốc cũng khát khao thử vận dụng các lý luận mới, văn học mới của
nước ngoài để đạt được thành công mới trong sáng tạo nghệ thuật.
Có thể nói, nhà văn hiện đại Trung Quốc tiếp thu sự ảnh hưởng của văn học
nước ngoài một cách phức tạp đa nguyên, hầu như tiếp thu tất cả các nhà văn nổi
tiếng của nước ngoài. Nhìn từ sáng tác, bất kể là đề tài, chủ đề, tình tiết nhân vật,
hay là hình thức nghệ thuật, phương pháp sáng tác, thủ pháp biểu hiện, ngôn ngữ,
phong cách v.v... đều đã chịu ảnh hưởng rất sâu sắc.
Những nội dung quan trọng của tinh thần thời kỳ ―Ngũ Tứ‖ như: chủ nghĩa
nhân đạo, giải phóng cá tính, bình đẳng nam nữ, tự do luyến ái, phê phán chủ nghĩa
phong kiến đều nêu ra dưới sự ảnh hưởng của những trào lưu mới nước ngoài; việc
đề xướng ―văn học cách mạng‖ càng chỉ rõ sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Văn học nước ngoài đã đẩy mạnh việc hiện đại hóa của văn học Trung Quốc.
Ở phương diện nhân vật, văn học truyền thống cổ đại Trung Quốc trên cơ bản là
viết những câu chuyện vui buồn tan hợp của đế vương tướng lĩnh, tài tử giai nhân.
Và mô típ của nó thường là: công tử rơi vào cảnh khó, gặp gỡ tình cờ với giai nhân,
thề ước trăm năm, trải qua nhiều giày vò, thi cử đỗ đạt, đại đoàn viên. Văn học hiện
đại Trung Quốc khác xa với nền văn học này, lấy công nhân, nông dân, trí thức và
phụ nữ bình thường làm nhân vật chính, đã triệt để phá vỡ mô típ tình tiết của ―đại
đoàn viên‖. Không thể phủ nhận, tiếp nhận sự ảnh hưởng của văn học nước ngoài là
nhân tố quan trọng thực hiện sự đột phá này.
Về phương pháp sáng tác, văn học hiện đại Trung Quốc đã chịu ảnh hưởng của
các trào lưu văn học nước ngoài khác nhau, bao gồm ba phương pháp sáng tác như:
chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện đại. Ba phương pháp đó
xuất hiện ở Trung Quốc gần như đồng thời, nhưng đã hình thành cao trào trong thời
kỳ khác nhau. Lỗ Tấn đã từng tôn sùng và giới thiệu những nhà văn chủ nghĩa lãng
mạn và chủ nghĩa hiện thực như: Goethe, Byron, Shelley, Pushkin, Lermontov
MikhailIurievich, Nikolai Vasilievich Gogol, Henrik Johan Ibsen v.v... trong Văn
hóa thiên chí luận và Thuyết về thơ Mara vào năm 1907 của ông. Ngày vùng dậy
của văn học hiện đại Trung Quốc cũng trong thời gian văn học hiện đại chủ nghĩa
phương Tây xuất hiện với số lượng lớn tại Trung Quốc. Nhật ký người điên của Lỗ
Tấn là một hình ảnh thu nhỏ trong tình hình này, có thể thuyết minh tốt nhất tình
hình này: Nhật ký người điên đã xuất phát từ lịch sử và hiện thực, vạch trần bản chất
tệ nạn ăn thịt người của chế độ và lễ giáo phong kiến, trên cơ bản là chủ nghĩa hiện
9
thực, nhưng lại mơ ước một xã hội lí tưởng ―ở tương lai không tha thứ những người
ăn thịt người‖, lại có nhân tố chủ nghĩa lãng mạn; áp dụng thủ pháp chủ nghĩa
tượng trưng, đồng thời lại mang một chút dư âm của chủ nghĩa hiện đại. Do vậy,
chúng tôi có thể nhìn ra một điều quan trọng: ở phương Tây, hiện đại chủ nghĩa
chống truyền thống, đối lập với những phương pháp sáng tác truyền thống. Khi nhà
văn hiện đại Trung Quốc tiếp nhận nó, đã hòa hợp và bổ sung cho những phương
pháp sáng tác truyền thống của mình để càng tốt càng hay. Văn học cổ Trung Quốc
có truyền thống tốt về khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng lãng mạn lâu dài,
như Kinh thi, khuynh hướng hiện thực của Đỗ Phủ, Khuất Nguyên; khuynh hướng
lãng mạn của Lý Bạch v.v...; Song, về bản chất chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa
lãng mạn của phương Tây lại có đặc điểm không giống với khuynh hướng hiện thực
và lãng mạn của truyền thống cổ Trung Quốc: nó có ý thức hiện đại rõ ràng như: tự
do dân chủ, giải phóng cá tính v.v... và tinh thần chống chủ nghĩa phong kiến, vạch
trần những mặt trái, bất công của xã hội tư bản cùng với những kỹ xảo mới hiện đại,
muôn hình muôn vẻ. Các nhà văn hiện đại Trung Quốc tiếp nhận những phương
pháp sáng tác này. Hiện đại chủ nghĩa không có trong văn học truyền thống Trung
Quốc, nhà văn hiện đại Trung Quốc đã tiếp nhận phương pháp sáng tác này, khiến
cho sáng tác của họ càng có ý thức hiện đại rõ ràng, hơn nữa đã mở rộng tầm nhìn
sáng tác, khiến cho tác phẩm của họ càng có sự cuốn hút về nghệ thuật. Trước văn
học cách mạng
1
, ngoài Lỗ Tấn, năm 1915, Trần Độc Tú đã từng đề xướng ―sau này
nên hướng về chủ nghĩa tả thật‖. Sau này, hiện thực chủ nghĩa đã được nhiều nhà
văn tiếp nhận, xuất hiện một loạt nhà văn phái nhân sinh và tác phẩm chủ nghĩa
hiện thực như: ―vị nhân sinh‖, ―biểu hiện nhân sinh‖, ―cải lương nhân sinh‖. Chủ
nghĩa hiện thực mau chóng hình thành cao trào trong thời kỳ ―Ngũ Tứ‖. Chủ nghĩa
lãng mạn trở thành trào lưu từ năm 1919, với Nữ thần của Quách Mạt Nhược. Chủ
nghĩa lãng mạn hình thành một cao trào trong thời kỳ này, không thể tách rời với
những tinh thần tiến lên như bão táp, phá vỡ tất cả cái cũ. Chủ nghĩa hiện thực,
những đề xướng lý luận thật sự và hình thành cao trào trong sáng tác là vào sau giữa
thập niên 20 đến đầu giữa thập niên 30, bắt đầu từ năm 1924, Lỗ Tấn đã áp dụng
nhiều hơn phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết của mình,
như Miếng xà phòng, Cao lão phu tử, Tiếc thương những ngày đã mất, v.v... là
những kiệt tác của chủ nghĩa hiện thực. Cuối thập niên 20 đến đầu giữa thập niên 30,
nhà văn Trung Quốc như Thi Trập Tồn, Mộ Thì Anh, Lưu Niệt Âu v. v... đã chịu sự
1 Tháng 1 năm 1917, tháng 4 năm 1918, Hồ Thích viết Văn học cải lương và xây dựng văn học
cách mạng luận, đề xướng văn bạch thoại, đã mở đầu cho văn học cách mạng. Rồi sau hơn 30 năm,
văn học Trung Quốc không những khai thác cho mình một con đường riêng, mà còn thâu tóm tất cả
thành tựu của văn học Trung Quốc trong thế kỷ 20, là một đỉnh cao rất khó vượt qua cho tới nay.
10
ảnh hưởng của văn học hiện đại chủ nghĩa của nước ngoài như Nhật Bản và Mỹ,
dịch rất nhiều tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa. Những nhà thơ phái hiện đại như: Đái
Vọng Thư, Hà Kỳ Phương, Từ Chí Ma, Vương Độc Thanh v.v… đã sáng tác theo
khuynh hướng chủ nghĩa hiện đại. Tào Vũ cũng chịu sự ảnh hưởng của Eugene
O’Neill - nhà văn sáng tác kịch chủ nghĩa hiện đại, sáng tác kịch Nguyên Dã nổi
tiếng, đã hình thành một cao trào văn học chủ nghĩa hiện đại của Trung Quốc.
Về thủ pháp biểu hiện, sự tiếp nhận văn học nước ngoài đã đem lại cho văn học
Trung Quốc nhiểu kỹ xảo mới mẻ. Người kể chuyện của tiểu thuyết chương hồi
truyền thống Trung Quốc chịu ảnh hưởng của người bình truyện, người kể truyện cơ
bản đều là những người toàn trí toàn năng (không có gì không biết, không có gì
không làm được), vượt qua tất cả nhân vật trong truyện, biết nhiều hơn tất cả nhân
vật trong truyện. Sự tiếp nhận của văn học nước ngoài đã đột phá mô típ trần thuật
đơn nhất này, khiến cho tiểu thuyết của Trung Quốc có nhiều mô típ người kể truyện.
Miêu tả cảnh vật và tâm lý càng tinh tế, tỉ mỉ và rõ mồn một, có dung lượng nhiều
hơn, nhất là thêm vào thủ pháp miêu tả tiềm thức nhân vật. Còn mượn thủ pháp
Montage (tiếng Pháp có nghĩa là lắp ghép cắt nối biên tập lại) trong phim ảnh nước
ngoài; tiếp nhận thủ pháp nhìn lại, phát hiện, thay đổi đột ngột v.v... của kịch nói
nước ngoài; từ văn học chủ nghĩa hiện đại tiếp nhận những thủ pháp như: thay đổi
cảm giác, giao thoa thời gian, thay đổi không gian v.v...để tăng cường và thể hiện
khả năng về nhịp sống với tốc độ nhanh, phương pháp thể hiện càng đa dạng hóa.
Về ngôn ngữ, văn học hiện đại Trung Quốc đã học hỏi ngôn ngữ văn học nước
ngoài, nâng cao tính chuẩn xác, thể hiện sự vật phức tạp với những ý tưởng giàu sức
thể hiện. Thí dụ Tiền Chung Thư đã áp dụng tài tình ý tưởng ―Vi thành‖ (thành bao
quanh) của ngạn ngữ tiếng Pháp, làm tên cuốn sách để nổi bật chủ đề.
Về phong cách sáng tác, các tác giả nước ngoài thường cũng có sự ảnh hưởng
rõ rệt đối với nhà văn hiện đại Trung Quốc. Như văn đoàn Trầm Chung đã chịu sự
ảnh hưởng nhà văn chủ nghĩa lãng mạn Hope Deman của Đức, tên văn đoàn đặt
theo tên kịch bản Trầm Chung của Hope Deman, những tác phẩm của họ đã thể hiện
phong cách chủ nghĩa lãng mạn đậm đặc. Nhà văn phái Tân cảm giác Nhật Bản đã
ảnh hưởng trực tiếp đến nhà văn phái Tân cảm giác của Trung Quốc. Lỗ Tấn đã chịu
sự ảnh hưởng của nhà văn Nga Nikolai Vasilievich Gogol, phong cách tiểu thuyết
của ông súc tích kín đáo, hài hước mỉa mai. Quách Mạc Nhược chịu sự ảnh hưởng
của những nhà thơ của nước Anh như: Shelley, Byron v.v... phong cách thơ của ông
khoáng đạt hào phóng.
Văn hóa Việt Nam tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ rất sớm, vào khoảng
thế kỷ XVI, khi các giáo sĩ Kitô đi truyền đạo, khi các thuyền buôn phương Tây đi
11
tìm thị trường. Đây cũng là thời gian ra đời chữ quốc ngữ, thứ chữ mượn chữ cái
Latinh để ghi âm tiếng Việt.
Nhưng văn hóa phương Tây chỉ thực sự ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX, sau những đợt khai thác thuộc địa. Lớp văn hóa phương Tây tuy
mỏng, nhưng sức tác động của nó là rất lớn. Đây là sự gặp gỡ của nông thôn và
thành thị, của nông nghiệp và công nghiệp, của phương Đông và phương Tây, của
Việt Nam và thế giới. Kết quả của sự gặp gỡ này là văn hóa Việt Nam rời quỹ đạo
khu vực, chuyển sang quỹ đạo văn hóa thế giới. Con tàu văn hóa Việt Nam bắt đầu
rời vùng biển nhà để ra khơi.
Cùng với sự khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng hạ tầng
cơ sở, như hệ thống đường bộ xuyên Việt, đường sắt, cầu cống v.v... Ngoài ra, họ
cũng khởi động các ngành công nghiệp chế biến và tiêu dùng. Một số đô thị cũng
được xây dựng theo kiến trúc của các thành phố hiện đại với sự phát triển công
thương nghiệp. Ở các thành phố này, dần dần hình thành một tầng lớp thị dân hiện
đại. Họ sẽ là chủ - khách thể của nền văn hóa đô thị đang dần dà bỏ lại sau các định
danh phương Đông và trung đại. Tuy nhiên, cơ sở công thương nghiệp còn kém
phát triển đã làm cho tầng lớp thị dân này chưa có một nhu cầu văn hóa cao, có tính
chất hiện đại. Và, để bù lại điều đó, lớp trí thức - những phần tử ưu tú nhất của tầng
lớp thị dân - đã phải vay mượn, học tập, tiếp nhận ở văn hóa phương Tây tiến bộ.
Về giáo dục, ban đầu người Pháp bảo lưu chế độ giáo dục và thi cử theo Nho
giáo vì nghĩ rằng, với mục đích trị bình, Nho giáo sẽ giúp xã hội Việt Nam ổn định
trở lại. Nhưng chẳng bao lâu sau, trước nhu cầu cần viên chức hành chính, thông
ngôn, thư ký cho các cơ quan, xí nghiệp, công ty..., họ đã bãi bỏ chế độ khoa cử và
xây dựng hệ thống giáo dục theo kiểu phương Tây: từ tiểu học, trung học tới đại học.
Ngoài ra, người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur ở
Sài Gòn (1891), Viện Hải Dương học (tục gọi là Nhà Cá) ở Nha Trang (1896),
Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội (1898)...
Chữ quốc ngữ tuy xuất hiện đã lâu, nhưng chỉ tồn tại trong một phạm vi hẹp là
cộng đồng Kitô giáo. Mãi đến giữa thế kỷ XIX, (ở Nam Bộ) và đầu XX (ở Bắc Bộ),
chữ quốc ngữ mới có cơ hội phát triển tăng tốc. Điều tưởng như nghịch lý là bấy
giờ người hô hào học chữ quốc ngữ lại chính là những nhà nho, những người trước
đây ghét cay ghét đắng thứ chữ không phải của thánh hiền này. Có điều họ là những
nhà nho duy tân, thấy quốc ngữ dễ học, dễ truyền bá tư tưởng canh tân đất nước,
nên họ nhảy qua được bóng của mình, dẹp được thành kiến cố hữu của mình. Mặt
khác, người Pháp cũng thấy sự tiện lợi này trong việc truyền bá tư tưởng của họ.
Thế là, các trường dạy tiếng quốc ngữ bắt đầu được thành lập, và chữ quốc ngữ
12
được dùng trong văn bản giấy tờ chính thức, được sử dụng trên báo chí ấn phẩm.
Chữ quốc ngữ, vì thế, đã trở thành phổ thông, một phương tiện hữu hiệu để lưu trữ và
phát triển tiếng Việt hiện đại.
Chữ quốc ngữ ra đời cũng thúc đẩy sự phát triển của báo chí. Đầu tiên chỉ là
những tờ công báo in bằng chữ Pháp và chữ Hán, sau đó xuất hiện các tờ bằng chữ
quốc ngữ ở Nam Kỳ như Gia định báo (1865), Phan Yên báo, Nông cổ mín đàm
(1901), Lục tỉnh tân văn (1907)... Rồi báo chí phát triển ở tất cả các địa phương, các
ngành nghề, các giới. Trong đó những tờ báo có đóng góp lớn vào xây dựng văn
hóa dân tộc như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Phụ Nữ tân văn, Hữu
Thanh, Thực nghiệp dân báo, Phong Hóa, Ngày Nay v.v... Sự phát triển của báo chí
đã thúc đẩy sự phát triển của tiếng Việt, khiến nó trở nên hoàn thiện hơn về ngữ
pháp, được bổ sung thêm những từ mới, nhất là những thuật ngữ khoa học, biến
tiếng Việt thành một ngôn ngữ hiện đại vừa mềm dẻo, tinh tế để có thể diễn tả được
mọi sắc thái tình cảm tinh vi của nội tâm con người, vừa đủ sáng sủa, khúc chiết để
diễn đạt một cách logic những vấn đề khoa học, triết học. Tiếng Việt, nhờ thế, sau
cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có thể được dùng để giảng dạy ở cấp đại học.
Đây là một điều hết sức kỳ lạ so với các nước ở Châu Phi sau khi giành độc lập mà
vẫn phải dùng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp để viết văn, làm thơ và dạy học.
Cuối cùng, sự phát triển của báo chí và tiếng Việt đã thúc đẩy sự phát triển của
văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật giai đoạn này ra đời như là kết quả của sự
giao thoa văn hóa Đông và Tây, Việt Nam và Pháp. Nó đã tiến một bước dài trên
con đường hiện đại hóa, thế giới hóa. Tất nhiên, đây chỉ là bước khởi đầu cho một
cuộc "hành quân xa" của văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhưng thế nào là hiện đại
hóa ? Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam vận động mạnh mẽ theo hướng đại hóa,
tức là khẳng định nền văn học này thoát khỏi những đặc trưng của văn học trung đại,
tạo nên được những đặc điểm, tính chất của một nền văn học hiện đại, theo mô hình
của văn học phương Tây. Nói một cách thô thiển thì thế giới hóa, hiện đại hóa là
người ta có gì thì mình có nấy. Người có tiểu thuyết thì ta cũng có tiểu thuyết,
người có kịch nói thì ta cũng có kịch nói, người có điện ảnh thì ta cũng có điện ảnh.
Rồi thì tân nhạc, vẽ sơn dầu, sơn mài, thể thao, thời trang v.v... Tuy nhiên, một điều
quan trọng khác là chất lượng thẩm mỹ. Có thể nói, văn hóa nghệ thuật giai đoạn
này đạt đến một chất lượng thẩm mỹ rất cao. Nhiều tác phẩm văn học, hội họa, âm
nhạc sẽ sống mãi với thời gian, nhiều tên tuổi nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ sẽ lưu danh
trong lịch sử văn hóa Việt Nam như những nhà cách tân tiên phong.
Tóm lại, lớp văn hóa phương Tây đã có những đóng góp to lớn cho văn hóa
Việt Nam. Trước hết, nó mang đến cho văn hóa Việt Nam những giá trị mới như tự
13
do, bình đẳng, dân chủ... là những giá trị nhân văn thuộc về con người phổ quát mà
tư tưởng Ánh sáng nêu ra. Sau đó, nó giúp người Việt phát triển được ý thức cá
nhân, coi cá nhân như một giá trị. Sự phát triển của cá nhân không đối lập mà hỗ trợ
cho sự phát triển của xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã là một trong
những động lực phát triển của văn hóa giai đoạn này. Cuối cùng, lớp văn hóa
phương Tây góp phần đưa văn hóa Việt Nam chuyển từ quỹ đạo văn hóa khu vực
sang quỹ đạo văn hóa thế giới. Từ đây, văn hóa Việt Nam bắt đầu tham gia vào quá
trình hội nhập thế giới.
Lớp văn hóa phương Tây từ sau năm 1945, khi Việt Nam giành được độc lập,
không phải đã chấm dứt, mà vẫn tiếp tục được bổ sung và làm dày thêm. Tuy nhiên,
lúc này sự phương Tây hóa không còn đơn tuyến nữa, mà là đa tuyến, không chỉ
qua một ngả Pháp, mà còn qua các ngả như Liên Xô, Đông Âu, Nhật Bản, ASEAN,
Mỹ v.v... Bởi vậy, thuật ngữ hiện đại hóa, thế giới hóa không còn trùng khít với
thuật ngữ "phương Tây hóa" nữa. Lớp văn hóa phương Tây sau năm 1945 có thể
phong phú và đa dạng hơn, sẽ bổ trợ tốt hơn cho văn hóa Việt Nam.
Sau khi tiếp xúc, văn hoá Việt Nam như nhào nặn lại, làm lại hoàn toàn. Theo
các nhà lịch sử văn hoá, hoà nhập, vừa là đặc trưng, là tính nội tại, vừa là điều kiện
sống còn của văn hoá. Lịch sử mỗi nền văn hoá không chỉ là sự phát triển tự thân
của nó, mà còn là lịch sử của mối quan hệ giữa nó với các nền văn hoá khác. Riêng
ở Việt Nam lịch sử đã hai lần biết tới một sự cấy ghép văn hoá ngoại lai như vậy,
nhưng cả hai lần, văn hoá Việt Nam đều không mất đi, không bị đồng hoá, trong khi
cải biến vẫn giữ được sắc thái của riêng mình. Nếu sau khi tiếp xúc với văn hoá
Trung Hoa, Việt Nam vẫn có những thời kỳ phát triển độc đáo, như văn hoá LýTrần, văn hoá cuối Lê đầu Nguyễn, thì sau khi làm một cuộc thay máu hoàn toàn
dưới ảnh hưởng văn hoá Pháp, nền văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ vẫn đẻ ra được
những đứa con bụ bẫm, như nền tiểu thuyết hiện đại, phong trào Thơ Mới v.v.
Theo nhà sử học Nhật Tsubôi thì một trong những đòi hỏi cấp bách nhất đặt ra
với nhiều nước ở phương Ðông hồi cuối thế kỷ XIX là phải “tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển một kiểu tư duy khả dĩ thức tỉnh ý thức dân tộc trước sự bành
trướng của phương Tây”. Và để đáp ứng đòi hỏi đó, ở Nhật Bản đã đưa ra khẩu
hiệu “Hoà hồn dương tài”, ở Triều Tiên có “Ðông đạo tây khí”, ở Trung Quốc có
“Trung thể tây dụng”. Bằng cách diễn tả khác nhau, các khẩu hiệu đó có phần cốt
lõi giống nhau: đó là những cố gắng của trí thức mỗi nước nhằm tìm cách hoà hợp
văn hoá Ðông -Tây và tạo cho đất nước một sự thích ứng với hoàn cảnh [107;
184-185]. Việt Nam tuy không có những khẩu hiệu rõ ràng tức là không được đưa
lên phương diện ý thức, song sự tiếp nhận văn minh phương Tây vẫn cứ ngấm ngầm
14
xảy ra, dần dà tự phát mà xảy ra, cái tinh thần thấy ở các khẩu hiệu nói trên ở Nhật
Bản, ở Trung Hoa, vẫn là điều được thực hiện ở Việt Nam. Những nỗ lực ―tuỳ tâm
Âu hoá‖ khởi đi từ các nhà nho trong Ðông Kinh Nghĩa Thục và Phan Chu Trinh,
đến những năm sau, càng được nhiều người thấy là phải và thành tâm tin theo. Nói
như Trần Văn Giàu “Tư tưởng về sự điều hoà đạo đức phương Ðông với khoa học
phương Tây để tạo cho Việt Nam một lớp thượng lưu mới, tạo cho Việt Nam điều kiện đi tới
phú cường – tư tưởng đó trong những năm 20 và 30 khá là phổ biến trong các báo chí chứ
không riêng gì trên Nam Phong”[45; 526].
1.1.2. Văn học hiện đại Trung Quốc từ 1919 đến 1949
Nền văn học Trung Quốc có lịch sử từ rất lâu đời với nhiều tên tuổi, nhiều kiệt
tác đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu trên phạm vi toàn thế
giới. Bước sang thế kỷ XX, văn học từ hình thức đến nội dung đều có sự thay đổi và
cách tân vĩ đại, tuyên cáo sự chấm dứt của nền văn học cổ đại và đánh dấu sự ra đời
của nền văn học hiện đại Trung Quốc. Ngay từ năm 1915, tạp chí Tân thanh niên1
đã cho đăng tải các bài viết phê phán chế độ phong kiến cổ hủ. Năm 1917 cũng trên
tờ Tân thanh niên có ý kiến kêu gọi "cách mạng văn học". Năm 1918, cũng tờ Tân
thanh niên cho đăng tải truyện ngắn bạch thoại đầu tiên Nhật ký người điên của Lỗ
Tấn. Theo cuốn Lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc do nhóm tác giả của Đại học
sư phạm Bắc Kinh và Đại học Nhân dân Trung Quốc biên tập và là giáo trình được
dùng chính thức trong chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành Văn học thì, "từ
khi Nhật ký người điên của Lỗ Tấn xuất bản năm 1918 - tác phẩm đầu tiên viết bằng
bạch thoại của Trung Quốc, văn học Trung Quốc đã chính thức bước vào phạm trù
văn học hiện đại"[149; 59].
Tuy nhiên, theo các giáo trình văn học sử, và cũng là cách phân kỳ được đa số
các nhà nghiên cứu văn học hiện đại Trung Quốc chấp nhận, văn học hiện đại Trung
Quốc bắt đầu từ phong trào Ngũ tứ năm 1919. Phong trào Ngũ tứ làm ranh giới cho
hai cuộc cách mạng, đó là thời kì kết thúc cách mạng dân chủ cũ do giai cấp tư sản
lãnh đạo và mở đầu cuộc cách mạng dân chủ mới do giai cấp vô sản lãnh đạo. Văn
học hiện đại là bộ phận hữu cơ trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng vô sản. Vận
1 Tạp chí Tân thanh niên (《新青年》杂志): do Trần Độc Tú làm chủ biên. Được thành lập trong
bối cảnh lịch sử: sau cách mạng Tân hợi, giai cấp phong kiến có ý đồ khôi phục lại ngai vàng, nhà
nước cộng hòa của giai cấp dân chủ tư sản chưa thể ra đời. Tư tưởng khi thành lập tạp chí Tân
thanh niên là: tuyên truyền chủ nghĩa dân chủ, phản đối tư tưởng và hoạt động khai sáng của chủ
nghĩa phong kiến. Tạp chí Tân thanh niên đề cao ngọn cờ dân chủ và khoa học, đề xướng văn học
mới, phản đối văn học cũ, đề xướng văn học bạch thoại, phản đối văn ngôn, đối với tư tưởng phong
kiến mê tín kịch liệt phản đối và phê phán. Đây chính là nội dung chủ yếu trong hoạt động tuyên
truyền đương thời của Tân thanh niên, cũng là hoạt động chủ yếu của hoạt động văn hóa mới. Chủ
biên của tạp chí Tân thanh niên là Trần Độc Tú, Lỗ Tấn làm đại biểu của chủ nghĩa dân chủ.
15
mệnh của nó gắn liền chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc Trung Hoa.
Có thể khẳng định rằng, với sự nỗ lực của các nhà văn, từ khi ra đời cho đến
năm 1949, văn học hiện đại Trung Quốc đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử gay
go phức tạp, vừa xây dựng vừa đấu tranh, vừa củng cố vừa phát triển và trong mỗi
một giai đọan lịch sử, nền văn học đó đều ghi lại những thành tựu rực rỡ, thể hiện
những bước tiến nhanh và mạnh của một nền văn học vừa thoát khỏi những đêm dài
của nền văn học viết bằng văn ngôn.
Ở đây, chúng tôi chia quá trình phát triển của lịch sử văn học hiện đại Trung
Quốc ra làm 3 thời kỳ như sau:
Thời kỳ Ngũ tứ từ 1919 đến 1927
Về mặt tổ chức, thời kỳ này đã hình thành mặt trận văn hóa thống nhất. Mặt
trận này bao gồm trí thức cộng sản như Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, Đặng Trung Hạ...
và các trí thức dân chủ khác như Hồ Thích, Lỗ Tấn.
Đến năm 1921, sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời, dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng Cộng sản, có hơn 100 đoàn thể văn học lớn nhỏ được thành lập
khắp nơi trên toàn quốc, trong đó đáng chú ý hơn cả là sự xuất hiện của Hội nghiên cứu
văn học
1
và Sáng tạo xã2
. Hai tổ chức này đại diện cho hai dòng văn học đương thời:
hiện thực chủ nghĩa và lãng mạn chủ nghĩa. "Hội nghiên cứu văn học" có tôn chỉ là
"xây dựng nền văn học vị dân sinh", đề xướng phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện
thực. Hội nhằm vào đối tượng đại chúng lao khổ với những đề tài có ý nghĩa xã hội.
"Sáng tạo xã" ngược lại, đề xướng chủ nghĩa lãng mạn với khẩu hiệu "Văn học cách
mạng", yêu cầu văn học phản ánh đời sống công nông binh, sáng tác theo tinh thần của
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Về phương diện sáng tác, thời kỳ này thu được nhiều thành tựu có ý nghĩa.
Ở thể loại tiểu thuyết, các tác phẩm của Lỗ Tấn như Nhật ký người điên,
Khổng Ất Kỷ, AQ chính truyện, Lễ cầu phúc... đã gây được những tiếng vang lớn
trên văn đàn. Các tác phẩm của ông đã phơi bày bộ mặt xấu xa của xã hội phong
kiến, mổ xẻ bản chất người bóc lột người của xã hội Trung Quốc thời kỳ đó. Ngoài
ra, các tiểu thuyết của Diệp Thánh Đào, Tưởng Quang Từ cũng thể hiện được
những vấn đề mà xã hội hiện đại quan tâm, đặc biệt là vấn đề giải phóng con người
rất được các nhà văn quan tâm khai thác.
Về thơ, thành tựu của thời kỳ này tiêu biểu là tập thơ Nữ thần của Quách Mạt
Nhược - một tập thơ thể hiện triệt để tinh thần phủ nhận xã hội cũ, kêu gọi sáng tạo
1 Hội nghiên cứu văn học(文学研究会): thành lập năm 1921 tại Bắc Kinh, do Thẩm Nhạn Băng,
Trịnh Chấn Đạc, Diệp Thiệu Quân sáng lập.
2
Sáng tạo xã(创造社): Thành lập năm 1921, do Quách Mạt Nhược, Úc Đạt Phu... sáng lập.