Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
105
Kích thước
23.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1160

Quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp theo pháp luật Dân sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỐ CHÍ MINH

LÝ THƠ HIỀN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỐ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật Dân Sự và Tố Tụng Dân Sự

Định hƣớng ứng dụng

Mã số chuyên ngành: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Văn Đại

Học viên: Lý Thơ Hiền

Lớp: Cao học Luật Phú Yên, khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và

nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của

PGS.TS Đỗ Văn Đại. Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một số

thông tin từ các nguồn sách, tạp chí, tài liệu... được liệt kê trong danh mục tài

liệu tham khảo.

Tác giả Luận văn

Lý Thơ Hiền

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS Bộ luật Dân sự

GĐT Giám đốc thẩm

HĐTP Hội đồng Thẩm phán

LTHADS Luật Thi hành án dân sự

Nxb Nhà xuất bản

PGS Phó Giáo sư

TAND Tòa án nhân dân

TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

TS Tiến sĩ

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................1

CHƢƠNG 1. CĂN CỨ PHÁT SINH QUYỀN ƢU TIÊN THANH TOÁN

CỦA NGƢỜI GIẢI CHẤP................................................................................13

1.1. Ngƣời giải chấp trực tiếp trả tiền cho ngân hàng để giải chấp tài

sản...............................................................................................................15

1.1.1. Bất cập.................................................................................................15

1.1.2. Kiến nghị hoàn thiện............................................................................21

1.2. Ngƣời giải chấp trả tiền mua tài sản cho ngƣời bán để giải chấp tài

sản...............................................................................................................21

1.2.1. Bất cập trong việc xác định ai là người giải chấp ..............................21

1.2.2. Kiến nghị hoàn thiện............................................................................26

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1...................................................................................27

CHƢƠNG 2. THỨ TỰ VÀ PHẠM VI ƢU TIÊN THANH TOÁN CỦA

NGƢỜI GIẢI CHẤP..........................................................................................28

2.1. Thứ tự ƣu tiên thanh toán của ngƣời giải chấp................................28

2.1.1. Bất cập.................................................................................................28

2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện............................................................................34

2.2. Phạm vi ƣu tiên thanh toán của ngƣời giải chấp .............................35

2.2.1. Bất cập.................................................................................................35

2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện............................................................................38

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2...................................................................................39

KẾT LUẬN .........................................................................................................40

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong thực tế đời sống, các giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm bằng

hình thức thế chấp tài sản và chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ là phổ biến. Khi các giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm

bằng hình thức thế chấp bị vi phạm thì tài sản thế chấp được xử lý, và quyền ưu

tiên thanh toán sẽ phát sinh. Để bảo vệ bên nhận thế chấp hoặc bên nhận chuyển

giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng hình thức thế

chấp, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và BLDS năm 2015 đã quy định cụ thể

về căn cứ phát sinh quyền ưu tiên thanh toán, thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý

tài sản thế chấp. Đặc biệt, trong BLDS năm 2015 đã phát triển, củng cố quyền

ưu tiên thanh toán của người nhận thế chấp tài sản trong mối quan hệ đối kháng

với người thứ ba.

Trong thực tiễn, tranh chấp giành quyền ưu tiên thanh toán do thực hiện

thay nghĩa vụ trả tiền để giải chấp tài sản

1

xảy ra khá phổ biến, điển hình là tình

huống: Một người đã thực hiện thay nghĩa vụ trả tiền của bên thế chấp để xóa

đăng ký thế chấp tài sản (sau đây gọi là “người giải chấp”2

) và họ muốn được ưu

tiên thanh toán khoản tiền trả nợ thay khi xử lý khối tài sản giải chấp

3

. Tuy nhiên,

trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 nói riêng và pháp luật dân sự Việt

Nam hiện nay nói chung không có quy định về căn cứ phát sinh quyền ưu tiên

thanh toán của người giải chấp; thứ tự và phạm vi ưu tiên thanh toán của người

giải chấp. Chính điều này làm Tòa án giải quyết tranh chấp rất lúng túng, không

có sự áp dụng thống nhất pháp luật, không đảm bảo sự công bằng đối với những

vụ án có tình huống pháp lý giống nhau nhưng kết quả giải quyết rất khác nhau.

Trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay, quyền ưu tiên thanh toán khi

xử lý tài sản thế chấp chỉ dành cho người nhận thế chấp tài sản. Khi áp dụng chế

định chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì

người nhận chuyển giao quyền yêu cầu cũng sẽ có quyền ưu tiên thanh toán của

người nhận thế chấp có quyền ban đầu. Tuy nhiên, việc thực hiện thay nghĩa vụ

1 Giải chấp là giải trừ tài sản thế chấp, là xóa đăng ký thế chấp tài sản.

2 Trong phạm vi đề tài này, “người giải chấp” được định nghĩa là: Người thực hiện thay nghĩa vụ trả tiền cho

bên thế chấp, trực tiếp hoặc gián trả nợ cho ngân hàng nhằm xóa đăng ký thế chấp tài sản.

3 Tài sản giải chấp là tài sản được xóa đăng ký thế chấp.

2

trả tiền để giải chấp tài sản có phải là hành vi pháp lý đương nhiên làm phát sinh

sự chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hay

không thì pháp luật dân sự hiện nay không nói rõ. Do đó, căn cứ phát sinh quyền

ưu tiên thanh toán của người giải chấp là một bất cập. Đồng thời, khi nghiên cứu

quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp thì các vấn đề về thứ tự và phạm vi

ưu tiên thanh toán của người giải chấp cũng phải được nghiên cứu vì pháp luật

chưa có quy định cụ thể.

Xuất phát từ những bất cập của pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay và

thực tiễn giải quyết tranh chấp nêu trên, tác giả chọn đề tài “Quyền ưu tiên thanh

toán của người giải chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm đề tài nghiên

cứu Luận văn thạc sỹ luật học của mình, nhằm góp phần nghiên cứu những quy

định của pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu trong phần Nghĩa vụ và Hợp

đồng của Bộ luật Dân sự.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Các chủ đề chuyển giao quyền yêu cầu, quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý

tài sản thế chấp đã được trình bày, phân tích trong một số giáo trình chuyên

ngành luật dân sự, các sách chuyên khảo của một số tác giả nghiên cứu khoa học

như tác phẩm “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005”, “Luật nghĩa vụ dân sự

và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận án”, một số bài báo

đăng trên các tạp chí khoa học như “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật

Dân sự”, “Áp dụng chế định chuyển giao quyền yêu cầu qua thực tiễn một vụ án

dân sự”, “Chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ dân sự”, “Trở

thành người thế quyền khi đã thực hiện thay nghĩa vụ trong quan hệ dân sự?”,

“Vấn đề pháp lý về quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm”, … mỗi

tác giả đã nêu, phân tích một hoặc một số vấn đề pháp lý. Tuy nhiên, nhìn tổng

quan thì chưa có công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu pháp luật dân sự

theo định hướng ứng dụng về đề tài “Quyền ưu tiên thanh toán của người giải

chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam”.

(i) Giáo trình, sách chuyên khảo:

- Trường Đại học luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam,

Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tập II.

3

Trong tài liệu này, đã đề cập và phân tích việc thay đổi chủ thể có quyền

yêu cầu (chuyển giao quyền yêu cầu, thế quyền) và chủ thể thực hiện nghĩa vụ

(chuyển giao việc thực hiện nghĩa vụ, thế nghĩa vụ). Giáo trình chỉ đề cập đến

việc chuyển giao quyền yêu cầu thông qua thỏa thuận, phân tích bản chất của

việc chuyển giao quyền yêu cầu là người thứ ba thế quyền của người có quyền

ban đầu, trở thành chủ thể có quyền mới; người có quyền ban đầu chấm dứt tư

cách chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ và không phải chịu trách nhiệm về khả năng

thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ.

Giáo trình phân tích chi tiết về điều kiện, hình thức thực hiện chuyển giao

quyền yêu cầu theo thỏa thuận; nghĩa vụ của các bên khi thực hiện chuyển giao

quyền yêu cầu theo thỏa thuận được quy định trong BLDS 2005, từ Điều 309

đến Điều 314. Giáo trình không đề cập đến chuyển giao quyền yêu cầu do luật

định như trong quan hệ thừa kế (Điều 636)… Nội dung giáo trình được xây dựng

trong bối cảnh BLDS 2005 có hiệu lực pháp luật nên ứng dụng vào hoàn cảnh

hiện tại thì không còn phù hợp với các quy định của BLDS 2015.

Trong luận văn, tác giả sẽ tiếp tục phân tích làm sáng tỏ các vấn đề giáo

trình chưa đề cập đến như chuyển giao quyền yêu cầu do luật định trong mối

quan hệ giữa người thực hiện thay nghĩa vụ và chuyển giao quyền yêu cầu có

biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của BLDS 2015.

- Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

dân sự, Bản án và bình luận án, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự

thật, Hà Nội.

Trong tác phẩm, tác giả bình luận một số bản án để nêu, phân tích căn cứ

phát sinh chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận và theo pháp luật, hệ quả

pháp lý của chuyển giao quyền yêu cầu trong mối quan hệ giữa chủ thể thế

quyền và chủ thể có nghĩa vụ và vai trò của chủ thể có quyền ban đầu.

Trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập đến trường hợp thế quyền sau khi thực

hiện thay nghĩa vụ, theo tác giả thì trường hợp này khá phổ biến và nêu ra vấn đề

pháp lý là “sau khi thanh toán cho người có quyền thì người trả thay có được thế

vào người có quyền không?”. Theo tác giả, trong BLDS 2005 chưa có điều luật cụ

thể nào đề cập đến trường hợp này. Viện dẫn các bản án để chứng minh trong thực

4

tiễn xét xử thì tòa án đã chấp nhận việc thế quyền này. Tác giả đã so sánh luật dân

sự Việt Nam với luật nước ngoài và đưa ra ý tưởng về việc bổ sung quy định của

luật về trường hợp thế quyền sau khi thực hiện thay nghĩa vụ dân sự.

Về hệ quả pháp lý, thì sự chuyển giao quyền yêu cầu chỉ thay đổi về chủ

thể quyền, còn nội dung, bản chất và đối tượng của nghĩa vụ dân sự thì không

thay đổi. Do đó nếu chuyển giao quyền có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

dân sự thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng tiếp tục được

duy trì. Nội dung này sẽ được tiếp thu và triển khai theo hướng viện dẫn các bản

án để chứng minh thực tiễn xét xử đã có xu hướng chấp nhận quan điểm này.

Tuy nhiên, thời điểm ra đời của tác phẩm là BLDS 2005 có hiệu lực; và

tác phẩm chưa phân tích trường hợp thế quyền khi thực hiện thay nghĩa vụ trả nợ

để giải chấp tài sản có phát sinh quyền ưu tiên thanh toán hay không. Nội dung

này sẽ được phân tích làm rõ trong luận văn theo quy định của BLDS 2015.

- Hoàng Thế Liên (2009), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, Tập

II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Trong tác phẩm, tác giả đã phân tích các điều luật trong BLDS 2005 về

chuyển giao quyền yêu cầu từ Điều 309 đến Điều 314, giới thiệu giá trị và ý

nghĩa của từng điều luật thông qua ý chí của nhà làm luật. Phân tích và lý giải

các trường hợp không được chuyển giao quyền yêu cầu như cấp dưỡng, yêu cầu

bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe … Trong tác phẩm chưa đề cập một

cách có hệ thống đến chuyển giao quyền yêu cầu theo luật định. Chỉ phân tích

đơn thuần về mặt lý luận và thiếu các dẫn chứng thực tiễn để chứng minh; chưa

chỉ ra được các hạn chế trong chế định chuyển giao quyền yêu cầu.

(ii) Tạp chí:

- Đỗ Văn Đại (2014), “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật Dân sự”,

Tạp chí Kiểm sát, số 3 (số tết), tr 40-41, 62.

Trong bài viết này, tác giả đã đề cập về cách thức chuyển giao quyền yêu

cầu theo thỏa thuận và “chuyển giao quyền yêu cầu mà không phụ thuộc vào ý

chí của các chủ thể liên quan” trong quan hệ thừa kế quy định tại Điều 636 BDS

2005 hay trong phần hợp đồng bảo hiểm quy định tại khoản 1 Điều 577 BLDS

2005. Theo tác giả, BLDS 2005 có quy định về thế quyền theo thỏa thuận (quy

5

định chung) và theo pháp luật (trong những hoàn cảnh cá biệt); trong BLDS

2005 đã ghi nhận rõ ràng việc chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận nhưng

“chưa thấy các quy định về chuyển giao quyền yêu cầu mà không có thỏa

thuận”. Tác giả so sánh với pháp luật của nước ngoài (BLDS Napoléon của

Pháp) có quy định cho phép thế quyền đương nhiên trong trường hợp người tiếp

nhận bất động sản khi người này sử dụng tiền mua bất động sản để thanh toán

cho người có quyền đã nhận thế chấp bất động sản. Tác giả đề xuất hướng

nghiên cứu bổ sung vào phần “Nghĩa vụ dân sự” của BLDS những quy định về

chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật.

Trong luận văn sẽ tiếp thu quan điểm cho phép thế quyền đương nhiên

trong trường hợp người tiếp nhận bất động sản khi người này sử dụng tiền mua

bất động sản để thanh toán cho người có quyền đã nhận thế chấp bất động sản.

Nêu và phân tích thực tiễn xét xử để chứng minh quan điểm “Quyền ưu tiên

thanh toán cho người giải chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam”.

- Bùi Đức Giang (2012), “Quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận thế chấp

quyền đòi nợ”, Tạp chí Ngân hàng, số 17, tr58-61.

Trong bài viết, tác giả đã nêu, phân tích quyền ưu tiên thanh toán của bên

nhận thế chấp quyền đòi nợ được xử lý theo quy định tại các điều 336, 355

BLDS 2005. Tuy nhiên, khi áp dụng trong thực tiễn thì có xung đột pháp luật.

Cụ thể: Xung đột lợi ích giữa bên nhận thế chấp với bên nhận chuyển giao

quyền đòi nợ. Theo tác giả, khoản 4 Điều 22 Nghị định 163/2006/NĐ-CP cấp

quyền ưu tiên thanh toán trong trường hợp quyền đòi nợ vừa có thế chấp, vừa

được chuyển giao thì theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm là mâu thuẫn với

quy định của khoản 3, 4 Điều 349 BLDS 2005. Vì quyền đòi nợ, sau khi được

thế chấp chỉ được chuyển giao khi bên nhận thế chấp đồng ý; nếu chuyển giao

mà không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp thì vô hiệu vì vi phạm điều cấm

của pháp luật (Điều 128 BLDS 2005).

Bài viết còn đề cập đến xung đột lợi ích giữa bên nhận thế chấp với bên có

quyền trong giao dịch thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba; với các

chủ nợ thực hiện quyền kê biên; với các bên cùng nhận thế chấp quyền đòi nợ;

với các chủ nợ khác.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!