Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Quyền được lãng quên theo pháp luật Liên Minh Châu Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRẦN TUẤN CẢNH
QUYỀN ĐƯỢC LÃNG QUÊN
THEO PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP HỒ CHÍ MINH - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
QUYỀN ĐƯỢC LÃNG QUÊN
THEO PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Thái Cường
Học viên : Trần Tuấn Cảnh
Lớp : 20CHDS_K34_NC
Thành phố Hồ Chí Minh, 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn Thạc sĩ “Quyền được lãng quên theo pháp luật Liên
minh châu Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thái Cường. Những thông tin, tài
liệu sử dụng trong luận văn được thu thập một cách khách quan, trung thực, số liệu
minh chứng có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính
xác của các thông tin, số liệu, ý kiến, quan điểm khoa học đã trình bày trong luận văn.
Người viết
Trần Tuấn Cảnh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT TÊN ĐẦY ĐỦ
1 BLDS Bộ luật Dân sự
2 CJEU Tòa án Công lý Liên minh châu Âu
3 DPA Cơ quan bảo vệ dữ liệu
4 EDPS Cơ quan giám sát bảo vệ dữ liệu châu Âu
5 ECHR Công ước châu Âu về nhân quyền
6 ECtHR Tòa án Nhân quyền châu Âu
7 EU Liên minh châu Âu
8 GDPR Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh châu Âu
9 ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
10 UDHR Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1. DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thực trạng sử dụng các trang mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay.
Bảng 2.4. Thực trạng hành động của chủ thể dữ liệu khi phát hiện hành vi xử lý trái
phép dữ liệu cá nhân.
2. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biều đồ 2.1. Biểu đồ thể hiện phản ứng liên quan đến vấn đề xử lý thông tin cá nhân
của chủ thể dữ liệu.
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ các tên miền bị ảnh hưởng nhiều nhất từ yêu cầu thực hiện
quyền được lãng quên.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
LIÊN MINH CHÂU ÂU VỀ QUYỀN ĐƯỢC LÃNG QUÊN.............................10
1.1. Khái quát về quyền được lãng quên...............................................................10
1.1.1. Nguồn gốc quyền được lãng quên ...........................................................10
1.1.2. Khái niệm quyền được lãng quên............................................................14
1.1.3. Mối liên hệ giữa quyền được lãng quên và các quyền liên quan ............18
1.2. Nội dung của pháp luật Liên minh châu Âu về quyền được lãng quên......21
1.2.1. Chủ thể, đối tượng của quyền được lãng quên.........................................21
1.2.2. Trường hợp áp dụng quyền được lãng quên.............................................24
1.2.3. Trường hợp không áp dụng quyền được lãng quên..................................29
1.3. Cách thức bảo vệ quyền được lãng quên và trách nhiệm pháp lý đối với
hành vi xâm phạm quyền được lãng quên theo pháp luật Liên minh châu Âu 34
1.3.1. Cách thức bảo vệ quyền được lãng quên..................................................34
1.3.2. Trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền được lãng quên......38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................43
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN QUYỀN ĐƯỢC LÃNG QUÊN TẠI LIÊN MINH
CHÂU ÂU VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM..........44
2.1. Về việc ghi nhận quyền được lãng quên ........................................................44
2.1.1. Mối tương quan về nhu cầu cấp thiết trong việc ghi nhận quyền được lãng
quên giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam.......................................................44
2.1.2. Kiến nghị về việc ghi nhận quyền được lãng quên trong hệ thống pháp luật
Việt Nam.............................................................................................................48
2.2. Về trường hợp áp dụng quyền được lãng quên.............................................53
2.2.1. Trường hợp áp dụng quyền được lãng quên do dữ liệu cá nhân không còn
cần thiết liên quan đến mục đích mà chúng được thu thập hoặc xử lý ..............53
2.2.2. Trường hợp áp dụng quyền được lãng quên phát sinh từ những căn cứ khác
.................................................................................................................58
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trường hợp áp dụng quyền
được lãng quên ...................................................................................................60
2.3. Về trường hợp không áp dụng quyền được lãng quên.................................61
2.3.1. Thực tiễn về trường hợp không áp dụng quyền được lãng quên tại Liên
minh châu Âu......................................................................................................61
2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trường hợp không áp dụng
quyền được lãng quên.........................................................................................63
2.4. Về trách nhiệm pháp lý do hành vi xâm phạm quyền được lãng quên ......65
2.4.1. Thực tiễn về trách nhiệm pháp lý do hành vi xâm phạm quyền được lãng
quên tại Liên minh châu Âu ...............................................................................65
2.4.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm pháp lý đối với
hành vi xâm phạm quyền được lãng quên..........................................................67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................72
KẾT LUẬN..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, môi trường
internet không còn quá xa lạ đối với con người; internet như một diễn đàn cho phép
người sử dụng giao tiếp và chia sẻ thông tin một cách hiệu quả, nhanh chóng. Tuy
nhiên, sự kết nối ngày càng tăng của internet đặt ra những thách thức đối với quyền
riêng tư và dữ liệu của cá nhân có thể bị xâm phạm. Việc xâm phạm quyền riêng tư
và dữ liệu cá nhân đang trở nên rõ ràng hơn và được công nghệ hóa khi con người có
thể lưu lại những khoảnh khắc cá nhân của họ và đưa chúng lên mạng xã hội mà
không nhận thức được ý nghĩa tồn tại của chúng. Chính vì vậy, đến một thời điểm
nào đó, những thông tin liên quan đến dữ liệu cá nhân sẽ không còn phù hợp, việc
tiếp tục duy trì nguồn dữ liệu này có thể xâm phạm trực tiếp đến cá nhân đó. Do đó,
quyền được yêu cầu bảo vệ dữ liệu cũng như thực hiện quyền được lãng quên đối với
thông tin liên quan đến cá nhân là một vấn đề cần được ghi nhận.
Trên thế giới, mặc dù chưa có nhiều hệ thống pháp luật cho phép cá nhân quyền
được yêu cầu xóa/quyền được lãng quên những thông tin gây ảnh hưởng xấu đến họ
khỏi môi trường internet; tuy nhiên, việc nghiên cứu về quyền được lãng quên đang
rất được các nhà nghiên cứu pháp luật quan tâm. Ở Châu Âu vào những năm 1970,
việc ban hành và áp dụng pháp luật về bảo vệ dữ liệu nhằm kiểm soát việc xử lý thông
tin cá nhân của các cơ quan công quyền và các công ty lớn. Đối với khu vực Liên
minh châu Âu, việc xử lý tự động dữ liệu cá nhân được quy định lần đầu tiên vào năm
1981 bằng Công ước 108 của Hội đồng Liên minh châu Âu1
. Năm 1995, Liên minh
châu Âu đã thông qua Chỉ thị bảo vệ dữ liệu cá nhân – CT 95/46/EC để quy định việc
xử lý dữ liệu cá nhân và di chuyển tự do dữ liệu2
. Tuy nhiên đến năm 2018, quyền
được lãng quên (right to be forgotten) lần đầu tiên được đề cập chính thức trong Quy
định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh châu Âu với tên gọi “European Union
General Data Protection Regulation” và có hiệu lực từ ngày 25 tháng 5 năm 2018,
mặc dù quyền này đã được Tòa án Công lý Liên minh châu Âu tuyên bố trong một
1 Công ước 108 là ràng buộc pháp lý quốc tế đầu tiên đề cập việc bảo vệ dữ liệu. Xem toàn văn Công ước 108
và hệ thống các Nghị định thư tại [https://www.coe.int/en/web/data-protection/convention108-and-protocol]
(truy cập ngày 15/4/2022).
2 Chỉ thị 95/46/EC của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu được ban hành ngày 24/10/1995 và có hiệu
lực vào tháng 10/1998. Xem toàn văn Chỉ thị tại [https://eur-lex.europa.eu/legal-content/en/TXT/?uri=
CELEX%3A31995L0046] (tuy cập ngày 15/4/2022).
2
phán quyết trước đó chống lại Google vào ngày 13 tháng 5 năm 20143
.
Tại Việt Nam, theo báo cáo thống kê vào 01/2021 của Statista4 – một đơn vị
nghiên cứu về việc sử dụng internet tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã công
bố có đến 68.72 triệu người đang sử dụng dịch vụ internet tại Việt Nam (chiếm
khoảng hơn 70% dân số) thông qua các nền tảng, ứng dụng khác nhau, với thời lượng
trung bình là 6 giờ 47 phút; đây được xem là khoảng thời gian tương đối lớn được sử
dụng trong 01 (một) ngày; điều này một lần nữa khẳng định thực trạng về nhu cầu sử
dụng internet và các phương tiện truyền thông xã hội của người Việt ngày càng tăng.
Trong những năm gần đây, nhiều người đã nhận ra những thách thức của việc thu
thập, lưu trữ và sử dụng thông tin cá nhân dưới sự phát triển nhanh chóng của công
nghệ; việc tồn tại nguồn dữ liệu này có thể xâm phạm đến các chủ thể tại một thời
điểm nhất định. Chính vì vậy, quyền được lãng quên được xem là một quyền quan
trọng để bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thời đại kỹ thuật số. Tuy nhiên, quyền này chưa
được cụ thể hóa trong các quy định của pháp luật Việt Nam. Do đó, việc hoàn chỉnh
khung pháp lý liên quan đến vấn đề bảo vệ dữ liệu, cũng như công nhận quyền được
lãng quên đối với những thông tin không còn phù hợp liên quan đến cá nhân là tất
yếu khách quan cần được xem xét.
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quyền được lãng quên theo pháp
luật Liên minh châu Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam” để nghiên cứu và đưa ra
những góp ý, kiến nghị và đề xuất xem xét công nhận quyền được lãng quên như là
một quyền nhân thân của cá nhân bên cạnh quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình đã tồn tại trong pháp luật Dân sự Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1.Trong nước
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam chưa ghi nhận quyền được lãng quên trong hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia, do đó chưa có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu sâu về vấn đề này. Một số tác giả tiếp cận đến quyền được lãng quên
dưới dạng các bài viết trên tạp chí chuyên ngành, cụ thể:
Huỳnh Thị Nam Hải, Huỳnh Thị Minh Hải (2021), “Quyền được lãng quên và
3 Google Spain SL, Google Inc. v Agencia Española de Protección de Datos, Mario Costeja González (2014)
is a decision by the Court of Justice of the European Union (CJEU).
4 Statista, “Number of internet users in the Asia Pacific region as of January 2021” [https://www.statista.
com/statistics/265153/number-of-internet-users-in-the-asia-pacific-region/] (truy cập ngày 31/3/2022).
3
vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (11): Bài viết chỉ ra được
hình thức thể hiện của quyền được lãng quên trên không gian mạng theo pháp luật
Liên minh châu Âu và liên hệ thực tiễn vấn đề bảo vệ quyền này tại Cộng hòa Pháp,
đồng thời đưa ra một số kiến nghị cho Việt Nam trong việc pháp điển hóa quyền được
lãng quên trên không gian mạng. Tuy nhiên, tác giả chưa phân tích sâu về trường hợp
hạn chế cũng như cách thức thực hiện quyền được lãng quên trên thực tế. Trong phạm
vi nghiên cứu, luận văn sẽ giải quyết được vấn đề này.
Vũ Công Giao, Lê Trần Như Tuyên (2020), “Bảo vệ quyền đối với dữ liệu cá
nhân trong pháp luật quốc tế, pháp luật ở một số quốc gia và giá trị tham khảo cho
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (5): Trong bài viết, nhóm tác giả phân tích
sự tác động của kỹ thuật số đến dữ liệu cá nhân; đánh giá các quy định pháp luật quốc
tế và pháp luật một số quốc gia về việc bảo vệ quyền này trong bối cảnh mới và nêu
ra một số giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo. Tuy nhiên, bài viết chỉ mới nhắc đến
khái niệm quyền được lãng quên mà chưa phân tích nội dung của quyền này khi xem
đây là cách bảo vệ dữ liệu cá nhân bằng yêu cầu xóa dữ liệu.
Bạch Thị Nhã Nam (2020), “Quyền được lãng quên từ thực tiễn phán quyết
trong phạm vi Liên minh châu Âu”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (24): Bài viết phân
tích ý tưởng lập pháp về quyền được lãng quên và việc pháp điển hóa quyền được
lãng quên trên không gian mạng internet thông qua việc đánh giá các phán quyết liên
quan đến quyền này từ thực tiễn phán quyết của Tòa án Công lý Liên minh châu Âu.
Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại ở việc đưa ra nhận xét về các phán quyết liên quan
đến quyền được lãng quên mà chưa có những giải pháp hoặc kiến nghị xem xét nội
luật hóa quyền này trong pháp luật quốc gia.
Phạm Hải Chung, Ngô Thị Minh Hương (2019), “Quyền được lãng quên trong
kỷ nguyên số: Thách thức của ứng dụng trí tuệ nhân tạo”, Hội thảo Trí tuệ nhân tạo
và những vấn đề đặt ra với pháp luật và quyền con người, do Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 28/5/2019: Trong bài viết này, nhóm tác giả đưa ra
khái niệm quyền được lãng quên trên cơ sở so sánh với quyền riêng tư trong hệ thống
pháp luật Liên minh châu Âu và tập trung vào sự tác động của trí tuệ nhân tạo đến
quyền này. Tuy nhiên, nhóm tác giả chỉ mới gợi mở giải pháp áp dụng quyền được
lãng quên như một ngoại lệ mà chưa đưa ra đề xuất cụ thể hoặc quan điểm có nên ghi
nhận quyền này tại Việt Nam hay không.
4
2.2. Nước ngoài
Quyền được lãng quên là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu luật học nước ngoài
quan tâm và thảo luận ở nhiều khía cạnh khác nhau, cụ thể:
❖ Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo:
Lukas Feiler, Nikilaus Forgo and Michaela Nebel (2021), The EU General
Data Protection Regulation: A Commentary, Second edition, Globe Law and
Business: Trong sách bình luận này, nhóm tác giả đã phân tích và bình luận từng Điều
luật tương ứng trong Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh châu Âu (có
bao gồm quyền được lãng quên tại Điều 17); đồng thời, các tác giả hướng dẫn về cách
giải thích Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh châu Âu cũng như các án
lệ mới của Tòa án Công lý của Liên minh châu Âu đối với thực tiễn áp dụng quy định
này. Qua đây, tác giả tham khảo cách thức áp dụng án lệ để đề xuất giải quyết vấn đề
về quyền được lãng quên trong xã hội hiện nay.
Franz Werro (2020), The Right To Be Forgotten, Springer: Trong quyển sách
này, tác giả đã phân tích và so sánh xu hướng phát triển của quyền được lãng quên
tại 17 quốc gia từ Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu và châu Á; đồng thời chỉ ra sự khác
biệt trong quan điểm của Mỹ và châu Âu về quyền được lãng quên. Cuốn sách cũng
cung cấp những kiến thức chuyên sâu về nguồn gốc, sự ghi nhận hiện tại và hướng
phát triển ở tương lai của quyền này trong nền kinh tế số. Tuy nhiên, khi đánh giá về
sự phát triển quyền được lãng quên tại châu Á, Franz Werro chỉ mới đề cập đến Đài
Loan mà chưa có sự đa dạng trong nghiên cứu của mình khi đánh giá quyền này. Qua
đây, tác giả có thể tham khảo cách thức đánh giá xu hướng phát triển và đề xuất trong
việc ghi nhận quyền được lãng quên tại Việt Nam.
N. Cofone Ignacio (2020), The Right to be Forgotten, A Canadian and
Comparative Perspective, Routledge: Trong quyển sách này, tác giả đã đánh giá về
sự phát triển của quyền được lãng quên, những thách thức và tác động của quyền này
đối với quyền riêng tư của cá nhân; cuốn sách này cũng đưa ra thực tiễn về quyền
được lãng quên ở Canada và phân tích những xung đột của các quan điểm tồn tại
trong bối cảnh quốc tế. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra cách thức để quyền được lãng
quên phù hợp với các khuôn khổ pháp lý hiện hành, cách tòa án và nhà lập pháp của
Canada có thể dung hòa giữa quyền riêng tư với quyền truy cập thông tin công khai.
Tuy nhiên, tác giả chưa phân tích sâu về thực trạng áp dụng quyền được lãng quên
5
mà chỉ dừng lại ở mức đề cập sự ghi nhận quyền này.
Paul Lambert (2019), The Right to be Forgotten, Bloomsbury Professional:
Trong quyển sách này, Paul Lambert đã có cách tiếp cận toàn diện đối với vấn đề xử
lý và quản lý dữ liệu đã tồn tại trong một thời gian dài và đề cập đến quyền được lãng
quên của chủ thể dữ liệu đó trong thời đại kỹ thuật số. Cụ thể, tác giả đi từ việc giải
quyết vấn đề pháp lý thông qua cách tiếp cận xã hội để phân tích ảnh hưởng của thực
tiễn đến pháp luật. Sau đó, tác giả phân tích khuôn khổ pháp lý về quyền được lãng
quên một cách chi tiết và đặc biệt chú ý đến nguồn gốc cơ bản của quyền này tại Liên
minh châu Âu. Đây là một quyển sách cung cấp nguồn tài nguyên hữu ích cho bất bất
kỳ ai tham gia vào việc cân nhắc các quyền tương ứng về quyền riêng tư và bảo vệ
dữ liệu cũng như quyền tự do ngôn luận và các quyền cơ bản khác. Tuy nhiên, tác giả
chưa đánh giá được sự tác động của quyền được lãng quên đối với các khu vực tài
phán khác nhau nếu vận dụng quyền này vào thực tiễn.
❖ Nhóm các luận án, luận văn:
Vladyslav Daruha (2018), The Right to be forgotten: Theory and Practice,
Master thesis, Mykolas Romeris University: Trong luận văn này, Vladyslav Daruha
tập trung nghiên cứu về mối tương đồng và sự khác biệt giữa khái niệm về sự xóa bỏ
(deletion) và sự lãng quên (forgetfulness), từ đó tiếp cận khái niệm về quyền được
lãng quên (right to be forgotten) cũng như sự phát triển quyền này ở các nước châu
Âu. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc đề cập đến quyền được lãng
quên và phân tích các phán quyết của Tòa án Công lý Liên minh châu Âu từ thực tiễn
vụ Google Tây Ban Nha 2014 mà chưa đi sâu vào phân tích, so sánh giữa chế độ lập
pháp hiện hành với các quy định trước đây được tòa án sử dụng (CT 95/46/EC) để
đưa ra phán quyết về phạm vi quyền được lãng quên.
Thea Kunz (2018), Celebrating Privacy Day: The Right to be forgotten and
individual privacy in the digital age, Master thesis, Uppsala Universitet: Trong luận
văn này, Thea Kunz đã chỉ ra sự thay đổi giữa Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của
Liên minh châu Âu so với Chỉ thị bảo vệ dữ liệu cá nhân 1995 tại châu Âu, đồng thời
phân tích những tranh cãi liên quan đến vấn đề cân bằng giữa quyền được lãng quên
và quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, luận văn chỉ dừng lại
ở việc phân tích ý nghĩa của quyền được lãng quên mà chưa làm rõ các trường hợp
áp dụng và hạn chế của quyền này.
6
J.E. Amaya Camposeco (2017), The Right to be Forgotten: A descriptive
overview of The Right to be forgotten, Bachelor’s final dissertation, Universitat
Pompeu Fabra Barcelona: Với công trình nghiên cứu này, tác giả đã đi vào phân tích
cơ sở của quyền được lãng quên dựa trên các phán quyết của Tòa án Công lý Liên
minh châu Âu; đồng thời bình luận sự phù hợp đối với các phán quyết đó. Tuy nhiên,
tác giả chỉ mới đề cập đến Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh châu Âu
mà chưa phân tích sâu về khả năng áp dụng quyền được lãng quên từ thực tiễn các
phán quyết được ban hành cũng như chưa đưa ra các trường hợp không áp dụng quyền
được lãng quên vì lợi ích đặc biệt của quốc gia.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên mặc dù đã phân tích
những vấn đề liên quan đến quyền được lãng quên nhưng chưa phân tích sâu, đánh
giá bao quát quyền được lãng quên trong thời đại phát triển mạnh mẽ của công nghệ
số. Bên cạnh đó, chưa có công trình nào khai thác vấn đề này dưới góc độ so sánh
các quy định của Liên minh châu Âu để làm cơ sở vận dụng vào thực tế tại Việt Nam
khi quyền này đang được xã hội quan tâm. Do đó, tác giả tiến hành nghiên cứu cụ
thể, chi tiết và tiếp cận từ góc độ lý luận đến thực tiễn về quyền được lãng quên trong
hệ thống các quy định của Liên minh châu Âu nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu
khoa học pháp lý cũng như vận dụng quy định này cho pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
❖ Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu những vấn đề cơ bản về quyền được lãng
quên theo pháp luật Liên minh châu Âu, phân tích thực tiễn áp dụng quyền được lãng
quên tại Liên minh châu Âu trước và sau khi Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của
Liên minh châu Âu có hiệu lực thi hành; từ đó liên hệ, đề xuất và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật Việt Nam.
❖ Nhiệm vụ nghiên cứu:
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn hiện nay, việc nghiên cứu đề tài này nhằm giải
quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề cơ bản về quyền được lãng quên theo pháp luật
Liên minh châu Âu, bao gồm nguồn gốc, khái niệm, chủ thể, đối tượng của quyền
được lãng quên và phân tích mối tương quan giữa quyền được lãng quên với các
quyền liên quan khác.
7
Thứ hai, phân tích các trường hợp áp dụng và trường hợp không áp dụng quyền
được lãng quên, các biện pháp bảo vệ và trách nhiệm pháp lý đối với từng hành vi
xâm phạm quyền được lãng quên.
Thứ ba, từ việc phân tích các phán quyết của Tòa án Công lý Liên minh châu
Âu, các tòa án quốc gia thuộc Liên minh châu Âu để đưa ra các nhận xét, đánh giá về
thực tiễn áp dụng quyền được lãng quên.
Thứ tư, trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích từ việc áp dụng pháp luật về
quyền được lãng quên của Liên minh châu Âu, nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng là
chỉ ra được sự cần thiết để công nhận quyền được lãng quên, từ đó đề xuất hoàn thiện
quy định của pháp luật Việt Nam nếu ghi nhận quyền này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
❖ Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về quyền được lãng quên theo quy định của pháp luật Liên
minh châu Âu.
❖ Phạm vi nghiên cứu:
Thứ nhất, về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu quyền được lãng quên
trên cơ sở phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật Liên minh châu
Âu và thực tiễn phán quyết của Tòa án Công lý Liên minh châu Âu, tòa án các quốc
gia thuộc Liên minh châu Âu; từ đó liên hệ với Việt Nam.
Thứ hai, về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về quyền được
lãng quên đã được thừa nhận, tồn tại trong Liên minh châu Âu trước đây và so sánh,
đối chiếu với các quy định pháp luật hiện hành.
Thứ ba, về nội dung: Trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu sâu các
khía cạnh về mặt lý luận, quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành quyền
được lãng quên theo pháp luật Liên minh châu Âu để làm cơ sở cho việc tiếp thu,
xem xét xây dựng khung pháp lý về quyền được lãng quên tại Việt Nam với tư cách
là một quyền dân sự của con người nhằm bảo vệ thông tin dữ liệu cá nhân trong thời
đại kỹ thuật số.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được đề tài, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
8
Thứ nhất, phương pháp biện chứng được sử dụng để nghiên cứu bản chất pháp
lý, xu hướng phát triển, khái niệm và các yếu tố cấu thành của quyền được lãng quên.
Thứ hai, phương pháp lịch sử dùng để nghiên cứu khái quát về các quy định
của pháp luật về quyền được lãng quên qua các giai đoạn khác nhau. Từ đó có thể
đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề nghiên cứu, qua đó thấy được mối liên hệ
và điểm tiến bộ cũng như những điểm còn hạn chế về việc thừa nhận quyền được
lãng quên của cá nhân trong thời đại công nghệ số. Phương pháp này được sử dụng
chủ yếu ở chương 1.
Thứ ba, phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để làm rõ các thuật
ngữ và khái niệm về quyền được lãng quên; đồng thời làm sáng tỏ các vấn đề pháp
lý, tìm hiểu, nhìn nhận nội dung của pháp luật thực định về quyền được lãng quên.
Bên cạnh đó, phương pháp này còn được sử dụng để đánh giá thực tiễn xét xử liên
quan đến quyền được lãng quên từ các quốc gia Liên minh châu Âu, làm cơ sở giải
quyết các tranh chấp liên quan đến quyền này. Đây là phương pháp được sử dụng chủ
yếu trong luận văn.
Thứ tư, phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu các quy định của pháp
luật quốc tế, quy định của các quốc gia khác với Việt Nam về các nội dung liên quan
đến quyền được lãng quên. Phương pháp này cũng được sử dụng trong quá trình phân
tích các quyết định của Tòa án Công lý Liên minh châu Âu và các cơ sở dữ liệu tương
ứng. Mặc khác, nhằm đối chiếu giữa quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng, từ
đó tìm ra được các vướng mắc trong quá trình áp dụng để đề xuất hướng hoàn thiện
pháp luật sao cho phù hợp với thực tiễn. Phương pháp này được sử dụng ở chương 1
và chương 2.
Thứ năm, phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng để khảo sát ý kiến liên
quan đến vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân, những khó khăn mà chủ thể dữ liệu gặp phải,
cũng như nhu cầu được đảm bảo an toàn thông tin trong thời đại công nghệ số để làm
cơ sở đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Phương pháp này được sử
dụng ở chương 2.
Cuối cùng, phương pháp mô hình hóa được áp dụng trong việc xây dựng các
kết luận, khuyến nghị và đề xuất những lý luận trên cơ sở thực tiễn cũng như định
hướng cho các nghiên cứu khoa học làm cơ sở xây dựng pháp luật quốc gia.