Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện ban thường vụ tỉnh uỷ bắc giang quản lý trong giai đoạn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 77 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân
tộc Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang, từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hoàn toàn độc
lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên CNXH. Công cuộc đổi mới đất nước đã
và đang giành được những thành tựu to lớn, được bạn bè trên thế giới hết sức
khâm phục, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng lên.
Những thắng lợi trên trước hết bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn và
từ việc dày công xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng.
Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ là một vấn đề hệ trọng, từ lâu đã
được các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập tới trong các tác
phẩm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc” [45, tr.269] và “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”[45, tr.240]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá
VII) đã chỉ rõ: “cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng hoặc kìm hãm hoặc thúc
đẩy tiến trình đổi mới” [13], Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá
VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ...” [13].
Để làm tốt công tác cán bộ, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ
nhiều nội dung, nhiều khâu, nhưng một trong những nội dung trọng yếu là
công tác QHCB, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) nêu rõ:
“Công tác QHCB là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm
cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” [13]. Có làm tốt QHCB mới từng bước nâng
cao được chất lượng, đảm bảo số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ; đảm bảo tính
liên tục, kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá và
không đồng bộ trong công tác cán bộ. Làm tốt công tác QHCB sẽ tạo cơ sở,
1
điều kiện, tiền đề để làm tốt các khâu khác trong công tác cán bộ như: ĐTBD,
điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và thực
hiện chính sách cán bộ. Khắc phục tình trạng ĐTBD cán bộ tràn lan, không có
trọng tâm, trọng điểm; lúng túng trong lựa chọn, phân công, bố trí cán bộ…
Những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết
định, thông tri về công tác QHCB: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và
sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội IV của Đảng đã chỉ rõ: Xây dựng và chỉ đạo
thực hiện tốt QHCB là một biện pháp đặc biệt trọng yếu, có tính quyết định để
tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt. Ngày 02/6/1978, BCHTW (khoá IV) đã
ra Chỉ thị số 45-CT/TW “Khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng QHCB lãnh
đạo, cán bộ quản lý”. Ngày 12/11/1983 Ban Bí thư TW Đảng (khoá V) ra Thông
tri số 31-TT/TW về việc “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng QHCB lãnh đạo và cán
bộ quản lý ở các ngành, các cấp”. Năm 1998, Bộ Chính trị (khoá VI) có Quyết
định số 55-QĐ/TW về “Công tác QHCB lãnh đạo các cấp từ nay đến năm
1990”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) đề ra yêu cầu: “Cán
bộ chủ trì phải điều hành, thực hiện quy hoạch chung về công tác cán bộ, đồng
thời trực tiếp bồi dưỡng người kế cận thay mình. Trong một năm phải có ít nhất
một lần kiểm điểm việc thực hiện quy hoạch của mình và kiểm tra việc thực hiện
quy hoạch của cấp dưới để kịp thời bổ sung, điều chỉnh” [13]. Ngày 30/11/2004
Bộ Chính trị có Nghị quyết số 42-NQ/TW về công tác QHCB lãnh đạo quản lý
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước...Nhờ vậy công tác QHCB đã có chuyển
biến tích cực, góp phần đổi mới từng bước công tác cán bộ nói chung. Tuy nhiên
đứng trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, yêu cầu
ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì công tác QHCB vẫn là một
khâu yếu, chất lượng và hiệu quả còn hạn chế. Hội nghị lần thứ 3, BCHTW
(khoá VIII) đã đánh giá: “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo chưa
chủ động xây dựng QHCB, không tích cực chuẩn bị người kế nhiệm” [13]. Do
vậy sắp tới “Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ...định kỳ
kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác QHCB” [13].
2
Quán triệt những quan điểm của Đảng, từ nhiều năm nay BTV Tỉnh uỷ
Bắc Giang đã quan tâm đến công tác QHCB, tích cực, tập trung lãnh đạo công
tác QHCB ở tỉnh, do đó công tác QHCB đã bước đầu đi vào nền nếp, đạt
được kết quả nhất định, góp phần làm tốt công tác cán bộ của tỉnh. Tuy vậy
công tác QHCB trong thời gian qua cũng bộc lộ không ít những thiếu sót,
khuyết điểm cần sớm được khắc phục.
Là một tỉnh miền núi, mới được tái lập từ ngày 01/01/1997, với diện
tích 3.882, 6 km2
, dân số trên 1,5 triệu người, địa hình phức tạp, mặc dù tình
hình chính trị-an ninh, trật tự, xã hội tương đối ổn định, kinh tế tăng trưởng
với tốc độ cao, song nhìn chung nền kinh tế của tỉnh chủ yếu vẫn là nông
nghiệp, công nghiệp nhỏ bé, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, GDP bình quân
đầu người còn thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước. Nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ
CBCC nói chung, trước hết là đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý,
bởi lẽ đây là ĐNCBCC của hệ thống chính trị ở tỉnh và cấp huyện, là lực lượng
chủ yếu, lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của
Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa bàn tỉnh. Muốn có đội ngũ cán
bộ ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài thì trước hết phải
thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước, yêu
cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị nơi mình đang công tác, tôi
mạnh dạn chọn đề tài “Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp khoá học thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng tại Học Viện
Chính trị -Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của công tác QHCB, mà nhiều cơ
quan, nhà khoa học, nhiều cán bộ, đã tập trung nghiên cứu vấn đề này, đã có
không ít đề tài, báo cáo, bài viết và công trình nghiên cứu về công tác QHCB
3
với các góc độ, khía cạnh, phạm vi, thời gian khác nhau được công bố, chẳng
hạn như:
-“Xây dựng đội ĐNCBCC trước hết là người đứng đầu” của đ/c Chu
Văn Rỵ, Tạp chí Cộng sản, số 5, 1997.
- Xây dựng và thực hiện tốt công tác QHCB trong thời kỳ mới” của Tô
Huy Rứa, Tạp chí Cộng sản, số 3 (tháng 2/1999).
- “Quan niệm khoa học về QHCB-lịch sử vấn đề và quá trình tiếp cận
vấn đề” của Phó Giáo sư Lê Văn Lý, Tạp trí Thông tin lý luận, tháng 6/1999.
- “Công tác QHCB chủ chốt của hệ thống chính trị-một số giải pháp
chủ yếu” của Tiến sĩ Ngô Kim Ngân, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, năm 2002.
- “QHCB lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đình Hoan, Tạp chí Cộng
sản, số 33, năm 2003.
- "Thực trạng trình độ học vấn và giải pháp quy hoạch đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn của Hà Nội”, Đề tài khoa học của
Trường Đào tạo Cán bộ Lê Hồng Phong, năm 1998.
- “Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Minh Thấu, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000.
- “Quy hoạch ĐNCBCC của hệ thống chính trị các xã ở tỉnh Quảng
Ngãi trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Mỹ Trang,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
- “Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Bộ Lao độngThương binh và xã hội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Xuân Lập, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- “Công tác QHCB lãnh đạo, quản lý cấp quận, huyện thuộc diện BTV
Thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Thị Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
4
- “Quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện Quận uỷ Ba Đình, Thành phố Hà
Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Lưu Tiến Định,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu, những công trình, bài viết đó mới
chỉ đề cập vấn đề QHCB nói chung hoặc là QHCB riêng của một số địa
phương, đơn vị. Cho đến nay chưa có tác giả nào công bố đề tài về quy hoạch
ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện
nay. Luận văn này sẽ kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan về công tác QHCB,
để tập trung nghiên cứu sâu vấn đề trên, góp phần làm tốt công tác QHCB của
tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn chủ yếu là đi sâu làm rõ những cơ sở khoa học
và đề xuất những giải pháp chủ yếu, góp phần nâng cao chất lượng quy hoạch
ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác quy hoạch ĐNCBCC
thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng ĐNCBCC và quy hoạch ĐNCBCC thuộc
diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997) đến nay;
chỉ ra nguyên nhân những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót, rút ra những kinh
nghiệm trong quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi,
nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc
Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu cụ thể là ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ
quản lý (theo quyết định về phân cấp quản lý cán bộ) bao gồm các chức danh:
5
Bí thư, phó bí thư Tỉnh uỷ, chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND tỉnh; trưởng,
phó các ban, cơ quan của Tỉnh uỷ, MTTQ và các đoàn thể nhân dân tỉnh;
giám đốc, phó giám đốc các sở, ban, ngành tỉnh và tương đương; bí thư, phó
bí thư, uỷ viên BTV huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ; chủ tịch,
phó chủ tịch HĐND, UBND các huyện, thành phố. Không đi sâu nghiên cứu
đội ngũ CBCC nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý các chức danh khác ở tỉnh
và cấp huyện hoặc ĐNCBCC ở cơ sở, xã, phường, thị trấn.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV
Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý, từ năm 1997 đến nay.
5. C¬ së lý luËn vµ ph¬ng ph¸p nghiªn cøu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, công tác cán bộ nói chung và công tác
QHCB nói riêng, có kế thừa các công trình khoa học đã được công bố liên
quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: Lôgíc- lịch sử,
thống kê số liệu, khảo sát thực tế; phương pháp phân tích - tổng hợp, khái
quát hoá, gắn lý luận với thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Cung cấp những luận cứ khoa học, làm rõ quan niệm, quan điểm,
nguyên tắc, phương châm, quy trình về quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV
Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện
BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong thời gian 10 năm qua. Đề xuất phương
hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao
6
chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý
trong giai đoạn hiện nay, góp phần đổi mới công tác cán bộ của tỉnh, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
7. ý nghÜa lý luËn vµ thùc tiÔn cña luËn v¨n
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho việc hoạch định, điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hoá chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ
quản lý.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, phục vụ cho việc
sơ, tổng kết về công tác cán bộ nói chung và công tác quy họạch cán bộ của
tỉnh và làm cơ sở để xây dựng một số kế hoạch, đề án…về quy hoạch, ĐTBD,
luân chuyển, bổ nhiệm, bố trí, sắp xếp và thực hiện chính sách đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và ở cấp
huyện trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo.
- Luận văn cũng có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy
cho đội ngũ cán bộ ở Trường Chính trị tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn chia làm 2 chương, 4 tiết.
7
Chương 1
QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT, QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1.1. Quan niệm, vai trò và đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay
1.1.1.1. Một số khái niệm
- Cán bộ là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự trong
nhân dân ta. Nó xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục
năm gần đây, để chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người
mới, luôn gắn bó với nhân dân, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, vì sự
nghiệp độc lập, tự do của dân tộc. Tên gọi cán bộ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ
trong lịch sử nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay. Cho đến nay hai từ
"cán bộ " đã rất thân thuộc đối với những đảng viên cộng sản nói riêng và
nhân dân Việt Nam nói chung. Tuy nhiên khi nghiên cứu, đề cập đến khái
niệm "cán bộ " vẫn còn những ý kiến, quan điểm chưa đồng nhất.
Xuất phát từ đặc điểm, truyền thống dân tộc và lịch sử từng quốc gia
nên việc xác định đối tượng cán bộ ở mỗi nước có khác nhau. Từ trước đến
nay khái niệm cán bộ thường được dùng phổ biến trong các nước XHCN, các
tổ chức thuộc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, còn ở các nước
phương Tây như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức thường dùng khái niệm công chức, ở
Nhật dùng khái niệm quan chức. Theo Từ điển Từ Hải của Trung Quốc, từ
cán bộ được giải thích là: Xuất phát từ tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Nhật.
Như vậy từ này do người Nhật sử dụng đầu tiên, sau đó được chuyển sang
Trung Quốc, và từ Trung Quốc du nhập vào nước ta. Trong tiếng Pháp, cũng
8
như tiếng Anh, từ "cán bộ " có nhiều nghĩa, nhưng có hai nghĩa chủ yếu được
chuyển vào từ "cán bộ" của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam. Nghĩa thứ nhất là
cái khung (ảnh), cái khuôn. Nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ
huy trong quân đội trong một số tổ chức làm nòng cốt.
Ở nước ta, từ "công chức" cũng được dùng từ lâu và có nhiều văn bản
đã quy định. Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số
76/SL về quy chế công chức. Năm 1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính
phủ) ban hành Nghị định 169/HĐBT quy định đối tượng công chức. Ngày
09/3/1998 Uỷ BTV Quốc hội ban hành Pháp lệnh cán bộ công chức, trong đó tại
Điều 1 nêu: “Công chức là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước
được tuyển dụng, bổ nhiệm làm nhiệm vụ thường xuyên trong biên chế, được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, theo ngạch, bậc lương được pháp luật quy
định” [52] Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002, ghi công chức là:
"Người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ
quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp" [65, tr.207]. Tuy
vậy trong thời gian dài từ công chức ít được sử dụng, từ cán bộ gần như được
dùng thay thế cho từ công chức, vì hình ảnh công chức trong xã hội cũ thường
bị coi là xấu "sáng vác ô đi, tối vác ô về". Từ những năm 90 của thế kỷ XX,
trở lại đây đã có người ta thường gọi những người công tác trong các cơ quan
nhà nước là công chức, những người đang công tác trong các cơ quan Đảng,
đoàn thể là cán bộ. Song tiêu thức phân biệt giữa khái niệm cán bộ và khái
niệm công chức chưa thực sự rõ ràng.
Trong Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản
năm 1999, từ cán bộ được định nghĩa là:
1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước.
2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường không giữ chức
vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước [19, tr.249].
Trong cuốn "Từ điển tiếng Việt", Nxb Đà Nẵng, năm 2002, nêu cán bộ
có hai nghĩa:
9
1. Người làm công tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà
nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị.
2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức
phân biệt với người thường không có chức vụ. Đoàn kết giữa cán
bộ và chiến sĩ. Họp cán bộ và công nhân nhà máy. Làm cán bộ
Đoàn thanh niên [65, tr.109].
Ở đây hàm nghĩa thứ nhất, cán bộ được xem như là người làm hành
chính công trong các cơ quan Nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ
hành chính cao nhất đến những người không có chức vụ hành chính nào, tất
cả đều nằm trong bộ máy, có nghĩa vụ, trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước
và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước theo ngạch lương nhất định do
Nhà nước quy định. Nghĩa thứ hai, cán bộ được coi như là người có chức vụ
và trách nhiệm cao hơn người khác trong bộ máy tổ chức. Điều này phản ánh
nghĩa gốc của từ cán bộ, bởi vì chính những người có chức vụ, trách nhiệm
cao mới có vai trò là nòng cốt, là người chỉ huy và đây chính là một góc độ
trong cách hiểu thông thường.
Hai định nghĩa nêu trong từ điển nói trên so với các định nghĩa trong
một số thời điểm khác có sự phát triển và hợp lý hơn, nhưng cũng cần lãm rõ
nội hàm và cả ngoại diên của khái niệm cán bộ hơn nữa:
Một là, nói cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn, cần
chỉ rõ là được đào tạo thông qua hệ thống nhà trường để có trình độ (tốt
nghiệp) từ trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên mới gọi là cán bộ để phân biệt
với người dưới trình độ này gọi là nhân viên.
Hai là, nói cán bộ là người làm công tác có chức vụ để phân biệt với
người không có chức vụ. Nhưng cần nói rõ là chức vụ được hình thành thông
qua con đường bầu cử dân chủ, hoặc đề bạt, bổ nhiệm. Mặt khác nói cán bộ là
người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức thì phải nói
của cả hệ thống chính trị. Thực tế, từ cán bộ không chỉ có đối tượng là các
công chức nhà nước mà là toàn bộ những người làm việc trong hệ thống chính
10
trị. Điều này xuất phát từ chỗ sự hình thành và phát triển của hệ thống chính
trị ở các nước XHCN trong đó có Việt Nam là: Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội đều là các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, tất cả
những người làm việc trong các tổ chức đó đều được tuyển chọn, quản lý và
hưởng quyền lợi theo quy chế chung thống nhất.
Ba là, nói đến cán bộ là nói đến con người và người cán bộ ở nước ta
phải được đặt trong các mối quan hệ xác định. Trước hết là trong mối quan hệ
với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ, quan hệ với tổ
chức và cơ chế chính sách, quan hệ với thực tiễn và phong trào cách mạng của
quần chúng nhân dân. Trong xã hội có giai cấp, cán bộ phải mang bản chất
của giai cấp cầm quyền. Người cán bộ cách mạng phải là người trung thành,
tận tuỵ vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Chính vì vậy Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, viết từ năm 1947,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm: “Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng” [45, tr.269].
Trước đây, trong chiến tranh cách mạng, cán bộ được coi là tất cả
những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể,
quân đội. Hiện nay, mặc dù hoàn cảnh thực tế khác đi và trong nhận thức của
con người cũng có nhiều thay đổi, nhưng trong cách hiểu thông thường nhất,
từ cán bộ trước hết vẫn đề phân biệt những người làm việc trong các cơ quan,
đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn thể nằm trong biên chế, với những người
dân không nằm trong các tổ chức trên.
Trong cuốn "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", từ cán bộ được dùng
với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong các tổ chức Đảng, đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:
11
Một là, chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ
sở đến TW (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên,
hội viên; hai là, người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ
chức này.
- Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trưởng trở lên (cán bộ tiểu
đội, cán bộ đại đội, cán bộ tiểu đoàn...) và thường là sĩ quan từ cấp uý trở lên.
- Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản trùng với từ
công chức, chỉ những người làm việc trong các cơ quan hành chính, cơ quan
tư pháp. Đồng thời cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy,
phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng...).
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có
khác nhau, nhưng về cơ bản từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ
khung, là nòng cốt là chỉ huy. Như vậy có thể quan niệm một cách chung
nhất, "cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị
nòng cốt trong một tổ chức và có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ
chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần
định hướng cho sự phát triển của tổ chức" [62, tr.18].
Trong pháp lệnh CBCC Việt Nam năm 1998, đã xác định đối tượng là
CBCC bao gồm những người:
Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; những
người được bầu cử, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên… trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và trong các cơ quan, đơn vị
quân đội nhân dân và công an nhân dân [52, tr.5-6].
Từ những điều nêu trên, chúng ta có thể khẳng định: Cán bộ là một
phạm trù dùng để chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan tổ chức của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả
những người giữ chức vụ lẫn những người làm công tác chuyên môn nghiệp
vụ không giữ chức vụ.
12