Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt (1368 – 1644)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------------
NGUYỄN THỊ KIỀU TRANG
QUAN HÖ S¸CH PHONG, TRIÒU CèNG MINH - §¹I VIÖT
(1368 - 1644)
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 62.22.03.11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS Dƣơng Duy Bằng
PGS.TS Đinh Ngọc Bảo
HÀ NỘI - 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
tư liệu sử dụng trong luận án là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về
kết quả nghiên cứu của mình.
Tác giả
Nguyễn Thị Kiều Trang
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .................................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................................13
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận án ...........................................................................14
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ..........................................................14
6. Đóng góp của luận án............................................................................................16
7. Bố cục của luận án ................................................................................................16
Chƣơng 1: CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG
MINH - ĐẠI VIỆT..................................................................................................17
1.1. Sự phát triển cao độ của tư tưởng ―thiên triều – chư hầu‖ dưới triều Minh.......17
1.1.1. Khái niệm ―sách phong‖, ―sắc phong‖, ―cống‖, ―triều cống‖ và nguồn
gốc của các hiện tượng này.....................................................................................17
1.1.2. Sự phát triển cao độ của tư tưởng ―thiên triều - chư hầu‖ dưới triều
Minh - cơ sở tư tưởng của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt ......20
1.2. Những lợi ích của nhà Minh trong việc xác lập, duy trì, phát triển quan
hệ sách phong, triều cống..........................................................................................24
1.3. Sự phát triển cường thịnh của Trung Quốc dưới triều Minh và tham vọng
bành trướng, mở rộng ảnh hưởng chính trị xuống phương nam.................................32
1.4. Nhu cầu của các vương triều Đại Việt trong việc xây dựng quan hệ sách
phong, triều cống và quan hệ hòa hiếu với nhà Minh...............................................37
1.5. Quan hệ sách phong, triều cống Trung - Việt trước thời Minh .........................42
Tiểu kết chƣơng 1....................................................................................................49
Chƣơng 2: QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI
VIỆT GIAI ĐOẠN 1368 - 1527..............................................................................51
2.1. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Trần (1368 – 1400)............................51
2.1.1. Sự xác lập quan hệ sách phong, triều cống Minh – Trần ...........................51
2.1.2. Các nghi lễ triều cống và đón, nhận chiếu sắc............................................55
iii
2.1.3. Lệ cống và cống phẩm................................................................................58
2.1.4. Những căng thẳng, phức tạp trong quan hệ sách phong, triều cống
Minh – Trần..........................................................................................................60
2.2. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Hồ (1400-1406) .................................63
2.2.1. Bối cảnh lịch sử Đại Việt và Trung Quốc những năm đầu thế kỉ XV........63
2.2.2. Sự xác lập quan hệ sách phong, triều cống Minh – Hồ và những
căng thẳng giữa hai nước ngay sau khi thiết lập quan hệ .....................................65
2.3. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê sơ (1428 – 1527)...........................70
2.3.1. Quá trình khôi phục quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước ở
đầu thời Lê sơ (1428 – 1437)................................................................................70
2.3.2. Sự ổn định lâu dài của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê sơ
trong thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI và nguyên nhân của hiện tượng này ...............79
Tiểu kết chƣơng 2....................................................................................................89
Chƣơng 3: QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI
VIỆT GIAI ĐOẠN 1527 - 1644..............................................................................92
3.1. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Mạc (1527 – 1592) ............................92
3.1.1. Sự gián đoạn của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt ở
nửa đầu thế kỷ XVI và chủ trương xâm lược Đại Việt của nhà Minh .................92
3.1.2. Sự ứng phó của nhà Mạc trước nguy cơ xâm lược của nhà Minh và
hình thức mới của quan hệ sách phong, triều cống Minh - Mạc ..........................99
3.2. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê trung hưng (1592 – 1644)...........108
3.2.1. Sự phục hưng của nhà Lê và quá trình khôi phục quan hệ sách
phong, triều cống Minh – Lê trung hưng............................................................108
3.2.2. Việc triều cống của nhà Lê trung hưng ....................................................115
Tiểu kết chƣơng 3..................................................................................................116
Chƣơng 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ SÁCH PHONG,
TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT .....................................................................118
4.1. Quan hệ sách phong, triều cống – nền tảng của quan hệ bang giao Minh
– Đại Việt ................................................................................................................118
4.2. Sự thăng trầm của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt phụ
thuộc chặt chẽ vào tương quan lực lượng giữa hai nước và diễn biến chính trị
trong mỗi nước ........................................................................................................122
iv
4.3. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt nhìn chung ổn định,
hòa mục, những lần căng thẳng, gián đoạn đều được hóa giải bằng sự thỏa
hiệp của cả hai phía .................................................................................................124
4.4. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt được qui phạm hóa về
thể thức, thể lệ, nghi lễ một cách chặt chẽ ..............................................................129
4.5. Hoạt động thương mại trong quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại
Việt (thương mại triều cống) còn hạn chế...............................................................134
4.6. Các vương triều Đại Việt duy trì quan hệ sách phong, triều cống với nhà
Minh nhưng hoàn toàn độc lập, tự chủ trong đối nội, đối ngoại.............................140
4.6.1. Các vương triều Đại Việt hoàn toàn độc lập trong việc lựa chọn,
quyết định ngôi vị hoàng đế................................................................................143
4.6.2. Các vương triều Đại Việt không sử dụng niên hiệu của vua Minh và
ấn do triều Minh cấp mà đặt niên hiệu riêng, đúc ấn riêng ................................144
4.6.3. Hầu hết các vua Đại Việt đều sử dụng tên giả trong các văn bản giao
thiệp với nhà Minh..............................................................................................146
4.6.4 Triều đình Đại Việt không chấp nhận một số nghi lễ đón tiếp sứ giả
nhà Minh và nhận chiếu sắc do triều Minh đề ra................................................148
4.6.5 Các vương triều Đại Việt hoàn toàn độc lập trong các chính sách đối
nội và đối ngoại...................................................................................................149
4.6.6. Các vương triều Đại Việt kiên quyết bảo vệ vững chắc an ninh biên
giới và toàn vẹn lãnh thổ.....................................................................................151
KẾT LUẬN............................................................................................................155
....................................................................................158
............................................................................................................. 1PL
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ sách phong, triều cống là một hình thức đặc biệt của quan hệ bang
giao giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ở thời phong kiến. Trong đó, các
vương triều Trung Quốc với ưu thế về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, tự cho
mình là ―thiên triều, thượng quốc‖, có quyền phong tước cho vua các nước nhỏ.
Ngược lại, để được phong vương, để thiết lập và duy trì quan hệ với Trung Quốc, để
được yên ổn, vua các nước này phải cầu phong và phải thực thi các nghĩa vụ với
―thiên triều‖, mà nghĩa vụ quan trọng nhất là phải triều cống định kì. Sách phong,
triều cống dần dần trở thành mô thức chủ yếu trong quan hệ giữa Trung Quốc với
các nước láng giềng ở thời trung đại. Mô thức này xuất hiện từ thời Tây Hán, không
ngừng được mở rộng thành hệ thống và tới thời Minh (1368 – 1644) thì đạt tới đỉnh
điểm của sự phát triển.
Sau giai đoạn mất ổn định kéo dài từ thời Nam Tống đến cuối Nguyên,
Trung Quốc dưới thời Minh đã bước vào thời kì phát triển hưng thịnh, trở thành một
quốc gia hùng cường ở châu Á và trên thế giới. Đây cũng là thời kì Trung Quốc mở
rộng ảnh hưởng ra toàn châu lục. Tuy nhiên, do vấp phải những trở ngại lớn ở cả ba
phía bắc, đông, tây nên Đông Nam Á và Nam Á đã trở thành mối quan tâm hàng
đầu của chính quyền nhà Minh. Khu vực này trở thành tâm điểm trong chính sách
đối ngoại của nhà Minh và cũng là khu vực chính để nhà Minh khôi phục và mở
rộng hệ thống triều cống truyền thống.
Do vị thế địa – chính trị, do sự tương đồng về văn hóa, do những hệ lụy của
hơn một nghìn năm Bắc thuộc và nhiều lí do khác mà quan hệ sách phong, triều
cống giữa Trung Quốc và Đại Việt trong lịch sử nói chung, ở thời Minh nói riêng
được duy trì chặt chẽ, bền vững, trở thành một trong những mối quan hệ sách
phong, triều cống có tính chất điển hình và là cơ sở, nền tảng của quan hệ bang giao
giữa hai nước trong suốt thời phong kiến.
Nghiên cứu về quan hệ Trung - Việt, Việt - Trung trong lịch sử, từ lâu đã được
nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm và đã có những đóng góp khoa học quan
trọng. Tuy nhiên, quan hệ sách phong, triều cống Trung – Việt ở thời phong kiến
hoặc giữa các triều đại cụ thể, mới chỉ được trình bày một cách khái quát trong các bộ
thông sử Việt Nam, thông sử Trung Quốc, hoặc còn là một phần khiêm tốn trong một
số công trình nghiên cứu về quan hệ tổng thể giữa hai nước. Với đề tài ―Quan hệ
sách phong, triều cống Minh – Đại Việt (1368 – 1644)‖, luận án muốn nghiên cứu
một cách hệ thống, chuyên biệt về quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc
và Đại Việt dưới chế độ phong kiến ở một thời kì lịch sử cụ thể có nhiều yếu tố tác
2
động sâu sắc đến mối quan hệ này. Đây cũng là thời kì quan hệ sách phong, triều
cống giữa hai nước có những giai đoạn ổn định lâu dài và có những lúc căng thẳng,
thậm chí gián đoạn, nhưng cuối cùng cũng đều đã được hai phía hóa giải.
Về những vấn đề khoa học cụ thể, luận án hướng tới việc làm sáng tỏ cơ sở
tư tưởng, cơ sở lợi ích, cơ sở lịch sử của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại
Việt; quá trình phát triển thăng trầm của mối quan hệ này và nguyên nhân của nó; vị
trí, đặc điểm của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt, thực chất thái độ
của các vương triều Đại Việt trong quan hệ với nhà Minh. Luận án cũng muốn góp
phần lý giải vì sao quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt lại tương đối ổn
định, bền vững và được duy trì chặt chẽ, khác với nhiều mối quan hệ triều cống
giữa các nước Đông Nam Á khác với nhà Minh…Trong một chừng mực nào đó, có
thể nói đó cũng là những vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu về quan hệ sách
phong, triều cống giữa Trung Quốc và Đại Việt từ khi hình thành (thế kỉ X) đến khi
kết thúc (thế kỉ XIX).
Luận án mong muốn tìm hiểu sâu hơn những yếu tố tác động tức thì đến
quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt trong từng giai đoạn cụ thể, mà nổi
bật là sự thay đổi tương quan lực lượng giữa hai nước và biến động chính trị ở mỗi
nước. Không những thế, quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt có lúc còn
bị tác động thậm chí chỉ bởi khí chất của một ông vua Minh hoặc vua Đại Việt, hay
sự tranh chấp đất đai lẫn nhau của thổ quan và dân chúng vùng biên giới… Tất cả
những điều này luôn là nguyên nhân trực tiếp làm cho quan hệ sách phong, triều
cống Minh – Đại Việt ở các giai đoạn Minh – Trần, Minh – Hồ, Minh – Lê sơ,
Minh – Mạc, Minh – Lê trung hưng có những điểm khác biệt nhau. Đây cũng là
những vấn đề lý thú của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt mà việc
nghiên cứu nó sẽ góp phần làm sáng rõ thêm một số khía cạnh của lịch sử Việt
Nam, lịch sử Trung Quốc và những mối quan hệ khác giữa hai nước.
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, ứng xử với các vương triều phong kiến Trung
Quốc như thế nào để vừa có thể sống hòa mục với một nước láng giềng lớn, tránh
được những căng thẳng, xung đột, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, vừa có thể đoàn kết được toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội,
không phải là một vấn đề đơn giản và luôn là một thách thức lớn đối với các vương
triều Đại Việt, nhất là trước một triều Minh cường thịnh và luôn có tham vọng bành
trướng, khống chế, kiềm tỏa Đại Việt. Những kinh nghiệm, bài học lịch sử mà cha
ông chúng ta để lại trong việc giải quyết vấn đề này, qua quan hệ sách phong, triều
cống, dưới bất cứ góc độ nào, chắc chắn mãi còn hữu ích.
Nghiên cứu quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt vì thế không chỉ
cần thiết cho việc nhận thức lịch sử một cách thuần túy mà còn có ý nghĩa thời sự
3
sâu sắc. Sự hấp dẫn của các vấn đề khoa học và thực tiễn nêu trên là lý do để tôi
chọn đề tài ―Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt (1368 – 1644)‖ làm
luận án tiến sĩ, dù tôi hiểu sâu sắc rằng việc giải quyết một cách thấu đáo những vấn
đề này không thể là công việc của một cá nhân trong khuôn khổ của một luận án.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc với các nước trong đó có
Đại Việt ở thời phong kiến là vấn đề đã được các học giả trên thế giới, các học giả
Trung Quốc và Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Dưới đây xin giới thiệu tổng quan
một số thành tựu và quan điểm nghiên cứu tiêu biểu.
2.1. Các học giả trên thế giới
* Những công trình nghiên cứu tổng quát về hệ thống triều cống và quan hệ
của nhà Minh với khu vực Đông Nam Á
Trước khi đề cập đến những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận án, xin điểm qua một số công trình nghiên cứu tổng quát của các học giả trên
thế giới về hệ thống triều cống và quan hệ của nhà Minh với các quốc gia Đông
Nam Á. Những nghiên cứu này đã góp phần vào việc lí giải mô hình bang giao giữa
Trung Quốc với các nước láng giềng ở thời trung đại; quan niệm của các vương
triều Trung Quốc về trật tự thế giới; nguồn gốc, chức năng, vai trò của hệ thống
triều cống; mối quan hệ giữa triều cống và thương mại; mối quan tâm đặc biệt của
nhà Minh với Đông Nam Á và quan hệ giữa Trung Quốc với Đông Nam Á thời
Minh…Đây là những vấn đề cần thiết và hữu ích đối với việc nghiên cứu các mối
quan hệ sách phong, triều cống cụ thể.
Một trong những nghiên cứu đầu tiên về hệ thống triều cống là của hai nhà
nghiên cứu J.K.Fairbank và S.Y.Teng với công trình: ―On the Ch’ing tributary
system‖ (Về hệ thống triều cống của nhà Thanh) (1941). Mặc dù nghiên cứu về
hệ thống triều cống của nhà Thanh (thế kỉ XVII – XIX) nhưng các tác giả của công
trình này đã phân tích khá chi tiết nguồn gốc, sự hình thành của hệ thống triều cống
và đã có đóng góp quan trọng trong việc định hình các quan niệm về hệ thống triều
cống. Đặc biệt, J.K.Fairbank và S.Y.Teng đã lí giải sự tồn tại bền vững của hệ thống
triều cống là do mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa chính trị và các động cơ kinh tế
trong hệ thống này. Luận điểm này xứng đáng được coi là một phát hiện. Vì vậy,
khi đánh giá về công trình của hai tác giả này, sử gia James Hevia đã viết: ―Gần
như tất cả những ai đi sau Fairbank và Teng đều trung thành lặp lại sự khẳng định
là hệ thống triều cống về bản chất có tính nhị nguyên‖ [118, 14].
Năm 1942, J.K.Fairbank công bố tiếp bài báo có tựa đề: ―Tributary trade
and China’s relations with the West‖ (Thƣơng mại triều cống và quan hệ của
Trung Quốc với phƣơng Tây), trong đó ông tiếp tục đưa ra những diễn giải về
4
nguồn gốc, chức năng, vai trò và tầm quan trọng của hệ thống triều cống. Nhiều
năm sau, J.K.Fairbank một lần nữa trình bày ý tưởng của ông về hệ thống triều cống
trong tập sách ―The Chinese world order: Traditional China’s foreign
relations” (Trật tự thế giới Trung Hoa: Mối quan hệ đối ngoại truyền thống
của Trung Hoa) (1968).
Những nghiên cứu mang tính hệ thống của J.K.Fairbank đặt cơ sở cho những
nghiên cứu tiếp theo của các học giả khác. Bên cạnh tiểu luận ―The early treaty
system in the Chinese World Order‖ (Hệ thống triều cống sơ khai trong trật tự
thế giới Trung Hoa) của J.K.Fairbank, tập sách ―The Chinese world order:
Traditional China’s foreign relations‖ còn giới thiệu các tiểu luận nghiên cứu của
các học giả khác như: ―Historical notes on the Chinese World Order‖ (Những ghi
chép lịch sử về trật tự thế giới Trung Hoa) của Lien-sheng Yang, ―Early Ming
relations with Southeast Asia: A background essay‖ (Tổng quan về mối quan hệ
giữa nhà Minh sơ với Đông Nam Á) của Wang Gungwu, ―The Ch’ing tribute
system: An interpretive essay‖ (Hệ thống triều cống của nhà Thanh: Một cách
diễn giải) của Mark Mancall, ―The Chinese perception of world order, past and
present‖ (Nhận thức của Trung Quốc về trật tự thế giới, quá khứ và hiện tại) của
Benjamin I.Schwartz…Các công trình nghiên cứu trên đề cập tới nhiều vấn đề nhưng
đều cố gắng hướng đến việc lí giải, khái quát đặc điểm, bản chất của ―Trật tự thế giới
Trung Hoa‖ (Chinese World Order). Theo các học giả, trong nhận thức của người
Trung Quốc về trật tự thế giới, ―nhà nước Trung Quốc không phải là một nhà nước,
theo nghĩa qui ước về thế giới này và hoàng đế không phải là vua của một nước trong
nhiều nước khác mà là người đứng giữa đất và trời…đỉnh chóp của văn minh, duy
nhất trong vũ trụ‖, ―sắp đặt thế giới vốn được coi là đặc quyền của hoàng đế Trung
Hoa‖ [Mark Mancall], và kết quả là từ rất sớm ―tất cả các đoàn sứ nước ngoài được
ghi chép như là đoàn sứ triều cống, và cả qui ước hành chính và thói quen sử học đã
thần thánh hóa cho phong tục này sau đó. Người Trung Quốc bắt đầu tin rằng mối
quan hệ triều cống là thứ rất bình thường – thứ không xung đột với cái nhìn tổng thể
của họ về thế giới đã biết‖ [Wang Gungwu]…
Trong tác phẩm ―China and the Chinese Overseas‖ (Trung Quốc và Hoa
kiều) (1991), Wang Gungwu (học giả gốc Hoa nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu
về Hoa kiều và lịch sử ngoại thương Trung Hoa) đã dành một chương (chương 3)
để viết về quan hệ ngoại giao của nhà Minh với Đông Nam Á. Tác giả đã phân tích
khái quát chính sách đối ngoại của các hoàng đế triều Minh đối với Đông Nam Á,
trong đó vấn đề Vân Nam và Đại Việt được nêu ra và trình bày xuyên suốt qua các
triều vua Minh như những ví dụ điển hình.
Martin Stuart – Fox trong cuốn ―A short history of China and Southeast
Asia: Tribute, Trade and Influence‖ (Lƣợc sử Trung Quốc và Đông Nam Á:
5
Triều cống, thƣơng mại và ảnh hƣởng) (2003) đã cố gắng phác họa một cách khái
quát mối liên hệ lịch sử giữa các dân tộc, chính quyền Trung Hoa với các dân tộc,
chính quyền Đông Nam Á. Đặc biệt tác giả đã dành một chương (chương 5) để nói
về đế chế biển, triều cống và thương mại, trong đó nghiên cứu về hệ thống triều
cống, chủ nghĩa bành trướng của triều Minh và quan hệ giữa Trung Hoa cuối thời
Minh với Đông Nam Á.
Cùng đề cập đến chính sách đối ngoại của nhà Minh đối với các quốc gia
Đông Nam Á, trong bài ―Engaging the South: Ming China and Southeast Asia in
the fifteenth century‖ (Sức hấp dẫn từ phƣơng Nam: nhà Minh Trung Hoa và
Đông Nam Á trong thế kỉ XV) (2008), G.Wade đã tập trung phân tích những
nguyên nhân (động lực) dẫn đến mối quan tâm đặc biệt của nhà Minh đối với Đông
Nam Á ở thế kỉ XV. Đại Việt được đề cập và minh họa cho những tham vọng bành
trướng, mở rộng ảnh hưởng của nhà Minh xuống phía nam đồng thời cũng là nơi
chịu tác động lớn từ những chính sách đối ngoại của vương triều này.
* Những công trình nghiên cứu về quan hệ Minh – Đại Việt
Bên cạnh những công trình nghiên cứu tổng quát về hệ thống triều cống và
quan hệ giữa nhà Minh với Đông Nam Á, đã có một số sách chuyên khảo và bài
viết đề cập đến mối quan hệ giữa nhà Minh và Đại Việt.
Cuốn ―Vietnam, Ho Quy Ly and the Ming (1371 – 1421)‖ (Việt Nam, Hồ
Quý Ly và nhà Minh 1371 – 1421) (1985) của John Whitmore đã tái hiện bối cảnh
xã hội Đại Việt ở cuối thế kỉ XIV, quá trình thâu tóm quyền lực và thiết lập nhà Hồ
của Hồ Quý Ly. Chống lại cách đánh giá truyền thống của một số nhà sử học Việt
Nam xem Hồ Quý Ly là ―nghịch thần‖, J.Whitmore cho rằng họ Hồ đã làm được
nhiều việc để củng cố và tập trung hóa ―nhà nước Việt Nam‖. Tiếp đó, J.Whitmore
đã khái quát về chính sách và quá trình xâm lược, chiếm đóng Đại Việt của nhà
Minh. Theo tác giả, trong khoảng thời gian chiếm đóng Đại Việt, nhà Minh đã đưa
vào đây nhiều yếu tố mới, làm thay đổi xã hội Đại Việt theo nhiều cách khác nhau.
Những yếu tố mới nằm trong các chính sách khai thác, bóc lột kinh tế, kiểm soát
chính trị, đồng hóa văn hóa đã được tác giả mô tả khá chi tiết.
Trước đó, A.B.Woodside trong bài viết ―Early Ming expansionism (1406-
1427): China’s abortive conquest of Vietnam‖ (Chủ nghĩa bành trƣớng thời kì
đầu triều Minh (1406 – 1427): Thất bại của Trung Quốc trong quá trình xâm
chiếm Việt Nam) (1963) cho rằng quá trình chiếm đóng Đại Việt của nhà Minh là
một sai lầm. Nhà Minh không đủ chuẩn bị để cai trị một vùng đất xa xôi, những nỗ
lực cai trị nửa vời của triều đình lại còn bị cản trở bởi tham nhũng và sự tham lam
của các viên quan kém tài được cử đến cai trị Đại Việt. Cuối cùng, theo Woodside,
6
sự thất bại của nỗ lực cai trị trực tiếp Đại Việt đã càng làm cho người Trung Quốc
tin vào sự khôn ngoan của hệ thống cống nạp.
Học giả Nhật Bản Momoki Shiro trong tiểu luận ―Dai Viet and South
China Sea trade from the X
th to the XVth century‖ (Đại Việt và thƣơng mại ở
biển Nam Trung Hoa từ thế kỉ X đến thế kỉ XV) (2004), mặc dù tập trung hướng
vào việc khảo cứu vị trí của Đại Việt trong mạng lưới buôn bán ở khu vực biển
Đông từ thế kỉ X đến thế kỉ XV nhưng cũng không quên đề cập đến mối quan hệ
triều cống giữa nhà Minh và Đại Việt vì mối quan hệ đó, theo tác giả, có tác động
không nhỏ đến hoạt động thương mại triều cống của hai quốc gia ở thời kì này.
Năm 2005, Nhà xuất bản Đại học Hawaii phát hành cuốn sách có tựa đề:
―Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino – Vietnamese
Relationship‖ (Đi qua những cột đồng: thơ đi sứ và quan hệ Trung Quốc – Việt
Nam) của Liam C.Kelley – Giáo sư trường Đại học Hawaii Liam C.Kelley đã tập
trung vào một khía cạnh trong quan hệ Việt – Trung mà lâu nay ít được để ý với ý
tưởng thông qua việc phân tích các bài thơ đi sứ của các sứ thần Việt Nam trong các
thế kỉ XVI – XIX để đưa ra những cách nhìn mới về quan hệ giữa hai quốc gia này.
Không tán thành quan điểm rằng về mặt lịch sử, người Việt luôn tìm cách duy trì
một bản sắc văn hóa riêng tách khỏi Trung Quốc, Kelley đã đưa ra một quan điểm
gây nhiều tranh cãi khi nhấn mạnh không có sự khác biệt lớn giữa văn hóa Trung
Hoa và văn hóa Việt Nam, người Việt mà cụ thể là tầng lớp trí thức Việt luôn coi
mình là một bộ phận của ―thế giới Trung Hoa‖. Theo tác giả: ―Các tài liệu ở đây
(bài thơ đi sứ) nói trực tiếp về quan hệ Trung – Việt, và chúng không nói gì về xung
đột hay đối nghịch. Chúng không bộc lộ bất kì cảm giác nào về sự kháng cự chống
Trung Quốc, mà lại mô tả một sự khẳng định toàn diện về một trật tự thế giới mà
quan hệ triều cống dựa vào và về vị trí phụ của Việt Nam trong thế giới ấy‖. Theo
nhận xét của giáo sư Keith Taylor, cuốn sách của Liam C.Kelley là một sự đóng
góp quí, giúp tăng hiểu biết về lịch sử và văn hóa Việt Nam. Nhưng việc Kelley
nhấn mạnh đến ưu thế vượt trội của văn hóa Trung Hoa trong tâm thức người Việt
lại làm hạn chế, chứ không mở rộng cách hiểu về Việt Nam.
Một trong những công trình lý thú nhất gần đây liên quan đến ảnh hưởng của
Trung Hoa đến Đại Việt ở thế kỉ XV là của Sun Laichen (ĐH California) với tựa đề
―Chinese gunpowder technology and Dai Viet: c.1390 – 1497‖ (Kĩ nghệ thuốc
súng của Trung Hoa và Đại Việt, khoảng 1390 - 1497) (2006). Những nghiên cứu
được trình bày trong bài viết này đã cho thấy một sự chuyển dịch ấn tượng về kĩ nghệ
quân sự Trung Hoa (đặc biệt là súng và thuốc súng) tới người Việt Nam thông qua sự
chiếm đóng của nhà Minh tại đây và có tác động rất lớn, làm thay đổi sức mạnh quân
sự cũng như vị thế của Đại Việt ở Đông Nam Á lục địa trong các thế kỉ sau đó.
7
Bài báo ―Asymmetry and China’s tributary system‖ (Tính không đối
xứng và hệ thống triều cống của Trung Hoa) (2012) của Brantly Womack đã
phân tách diễn trình lịch sử của hệ thống triều cống Trung Quốc bằng các vấn đề
khái quát để gợi ý về một mô hình. Tác giả lập luận rằng vị thế của Trung Quốc như
một quốc gia trung tâm ở châu Á là cơ sở của các mối quan hệ với bên ngoài.
Brantly cũng đưa ra trường hợp quan hệ Trung Quốc – Việt Nam ở thời Minh làm
ví dụ tiêu biểu để kết luận rằng khả năng phản kháng của các nước láng giềng nhỏ
hơn là chìa khóa để duy trì tình trạng cân bằng mà không dựa trên sự thống trị áp
đảo (từ phía Trung Quốc).
Có thể thấy, các học giả nước ngoài (mà ở đây chủ yếu là các học giả
phương Tây) chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về quan hệ sách
phong, triều cống giữa Trung Quốc và Việt Nam trong lịch sử. Tuy vậy, các công
trình nghiên cứu kể trên của họ là những đóng góp có giá trị đối với việc nghiên cứu
về hệ thống triều cống, về đặc điểm, bản chất của ―trật tự thế giới Trung Hoa‖ và về
những mối quan hệ đa dạng của nhà Minh với Đông Nam Á, trong đó có Đại Việt.
Đây là những tri thức tổng quát, cần thiết đối với việc nghiên cứu quan hệ sách
phong, triều cống Minh – Đại Việt.
2.2. Các học giả Trung Quốc
Cũng giống như các học giả phương Tây, các học giả Trung Quốc khi nghiên
cứu lịch sử quan hệ đối ngoại của Trung Quốc luôn muốn tìm hiểu cơ sở lý luận,
nguồn gốc dẫn đến sự hình thành quan niệm về ―Trật tự thế giới Trung Hoa‖
(Chinese World Order). Tuy nhiên, xuất phát điểm cũng như quan niệm của họ về
lý luận này không giống các học giả phương Tây.
Hoàng Chi Liên trong cuốn ―Nghiên cứu hệ thống lễ trị thiên triều, Trật
tự Hoa Hạ ở châu Á: Luận về hình thái mối quan hệ giữa Trung Quốc với các
nƣớc châu Á‖(1992) đã đưa ra khái niệm ―Hệ thống lễ trị thiên triều‖. Trong hệ
thống đó, tác giả lấy ―Hoa‖ của đế quốc Trung Hoa với thế nước cường thịnh và
nền văn hóa ưu việt so với các nước trong khu vực làm nền tảng, coi việc ―Di‖ ở
các nước xung quanh triều cống và tiếp thu sách phong từ các triều đại Trung Quốc
là sợi dây gắn kết trật tự chính trị, thương mại triều cống, là sự bảo đảm cho trật tự
kinh tế. Đặc trưng của ―hệ thống lễ trị thiên triều‖ là sự ―đức hóa‖, ―mộ hóa‖ chứ
không phải là chinh phục, ép buộc…Trong quá trình nghiên cứu, Hoàng Chi Liên
cũng phát hiện ra rằng Triều Tiên và An Nam đều thuộc hàng phiên quốc thân cận
nhất của Trung Quốc, tuy nhiên hai quốc gia này lại tiếp nhận ―hệ thống lễ trị‖ này
ở mức độ khác nhau, chỉ có Triều Tiên là hoàn toàn tiếp thu chế độ đó mà thôi.
Khi bàn về ―Trật tự Hoa Di‖, Hà Phương Xuyên trong bài ―Luận về trật tự
Hoa Di‖ (1998) cho rằng quan hệ triều cống và trật tự Hoa Di là hệ thống lý luận
8
hoàn bị nhất trong quan hệ quốc tế thời cổ đại. Tác giả nhận định rằng ―nhất‖ và
―hòa‖ (là hai yếu tố bản chất nhất trong hệ thống quan điểm và nguyên tắc có liên
quan đến ―trật tự Hoa Di‖). ―Nhất‖ ở đây chính là ―trời sinh thánh nhân‖ – hoàng đế
của đế quốc Trung Hoa. Bên dưới hoàng đế, muôn nước đến triều cống, kính mừng
hoàng đế thánh minh, thống trị Hoa Di. Chỉ khi thừa nhận cái ―nhất‖ thì việc gì dưới
cái ―nhất‖ đó cũng thực hiện được. ―Nhất‖ ở đây tức là chỉ đế quốc Trung Hoa và
hoàng đế là ―đại nhất thống‖, ―nhất thống Hoa Di‖, còn cái mà hoàng đế theo đuổi
tìm kiếm chính là việc đem lại ―hòa‖ cho các nước lân bang. Vì thế, trong ―trật tự
Hoa Di‖, mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh là mối quan hệ
giữa ―trị‖ và ―phụng‖, là mối quan hệ giữa ―phủ ngự‖ (cúi xuống vỗ về) và ―sự đại‖
(ngẩng lên thờ nước lớn) trong đó đế quốc Trung Hoa và người thống trị đất nước
này luôn đóng vai trò ở trên cao vươn xuống thấp, bao trùm tất cả trong cái ―trật tự
Hoa Di‖ đó.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng đưa ra nhiều ý kiến bác bỏ quan điểm
của J.K.Fairbank và S.Y.Teng. Zang Feng trong bài báo ―Rethinking the
“Tributary system”: Broadening the conceptual horizon of historical East
Asian politics‖ (Suy ngẫm lại về “Hệ thống triều cống”: Mở rộng biên độ khái
niệm về lịch sử chính trị khu vực Đông Á) (2009) cho rằng mặc dù có chữ ―triều‖
(朝) và chữ ―cống‖ (貢) trong chữ Hán, nhưng cái gọi là ―Hệ thống triều cống‖
(Tributary system) là do học giả phương Tây tạo ra và đó chỉ là hình thức ngoại giao
bình thường thời cổ ở Trung Quốc.
Cuốn ―Đông Nam Á và ngƣời Hoa‖ do Công ty xuất bản Hữu Nghị Trung
Quốc ấn hành năm 1986 là một tuyển tập các bài viết của học giả Vương Canh Vũ
về mảng đề tài quan hệ giữa người Hoa và Đông Nam Á trong lịch sử. Trong đó,
đáng chú ý là hai bài viết ―Luận thuật về bối cảnh mối quan hệ giữa Đông Nam
Á và nhà Minh (giai đoạn đầu)‖ (trang 1 - 41) và ―Trung Quốc và Đông Nam Á
từ 1404 đến 1424‖ (trang 42 - 71). Trong hai bài viết này, bằng những tư liệu lịch
sử chân thực và lập luận sâu sắc, tác giả đã đưa ra một cách tiếp cận thú vị về bản
chất quan hệ triều cống giữa nhà Minh và các nước Đông Nam Á (trong đó có Đại
Việt). Ví dụ, trong bài ―Luận thuật về bối cảnh mối quan hệ giữa Đông Nam Á
và nhà Minh (giai đoạn đầu)”, Vương Canh Vũ đã viết: ―Trong chế độ triều cống,
rất nhiều thứ vốn là truyền thống như ngôn ngữ, lễ nghĩa, các sự kiện lớn đã được
ghi lại dưới quan điểm và thế giới quan của Nho gia. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thứ
khác hoàn toàn không tương ứng như: tính xâm lược, sở thích chủ quan của hoàng
đế, sự đặc biệt giữa việc dung hợp giữa tính vô tư công bình [trong quan hệ ngoại
giao] và thực lực quân sự. Đó là điều mà bài viết ngắn dù biết không dễ gì nhưng sẽ
cố gắng chứng minh cho sự thật ấy, điều mà người viết cho rằng, nó sẽ chỉ ra nhiều
9
mặt của sự thật‖. Với cách tiếp cận khá mới mẻ, những bài viết của học giả Vương
Canh Vũ là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu về mối quan hệ triều
cống giữa Trung Quốc và Đông Nam Á ở thế kỉ XV.
Một trong những công trình nghiên cứu tiêu biểu về mối quan hệ giữa nhà
Minh và Đại Việt là cuốn sách ―Chinh chiến và từ bỏ - Nghiên cứu mối quan hệ
Trung Việt thời Minh‖ của Trịnh Vĩnh Thường (1998). Vế đầu tiên trong tựa đề
của cuốn sách: ―Chinh chiến dữ khí thủ‖ (Chinh chiến và từ bỏ) đã phần nào phản
ánh diễn biến của cuộc viễn chinh tấn công Đại Việt ở thời hoàng đế Chu Đệ. Mặc
dù tác giả đã đưa ra một số quan điểm mới, khá độc đáo về cuộc viễn chinh này
nhưng cũng không tránh khỏi việc bị chi phối bởi tư tưởng nước lớn như nhiều học
giả Trung Hoa khác.
Luận án tiến sĩ của Ngưu Quân Khải với tiêu đề ―Triều cống và bang giao –
Nghiên cứu mối quan hệ Trung - Việt giai đoạn cuối Minh đầu Thanh (1593-
1702)‖ (2003) lại hướng vào nghiên cứu thái độ, sự tác động qua lại và diễn biến
mối quan hệ Trung – Việt khi cả hai nước đang ở vào tình cảnh triều chính suy vi.
Tác giả luận án cho rằng vào thời kì cuối Minh đầu Thanh, Trung Quốc đã lựa chọn
chính sách ―thừa nhận cả hai‖, thừa nhận cả chính quyền nhà Mạc và chính quyền
nhà Lê ở Đại Việt cũng như nhấn mạnh rằng thực lực là vấn đề then chốt ảnh hưởng
đến quan hệ giữa hai nước.
Cuốn ―Sử luận về lịch sử chế độ triều cống – Nghiên cứu về thể chế quan
hệ đối ngoại của Trung Quốc thời cổ đại‖ (2004) của Lý Vân Tuyền đã góp thêm
một cách tiếp cận mới khi nghiên cứu về mối quan hệ đối ngoại của Trung Quốc.
Tác phẩm được kết cấu làm 6 chương, ở chương 2 với tiêu đề ―Nghiên cứu
chế độ triều cống thời Minh”, tác giả đã đi sâu phân tích về chế độ triều cống thời
Minh ở các mặt: phân loại các hình thức triều cống, quy định và trình tự triều cống,
cống vật, hồi tứ và sách phong, cách tổ chức quản lí sự vụ triều cống và cơ cấu
ngoại giao thời Minh. Quan hệ triều cống giữa Đại Việt (An Nam) với nhà Minh tuy
chỉ được dẫn chứng đặt trong tổng thể mối quan hệ triều cống giữa các nước Lưu
Cầu, Triều Tiên, Chămpa…với nhà Minh song đã cung cấp một số bảng biểu, số
liệu về chế độ cống sứ của Đại Việt đối với triều Minh qua các giai đoạn. Tác phẩm
là tài liệu tham khảo có giá trị đối với việc nghiên cứu lịch sử triều cống của Trung
Quốc với các nước, trong đó có Việt Nam.
Trần Văn Nguyên đã đặt vấn đề cho luận án ―Nghiên cứu quan hệ TrungViệt đời Minh‖ (2005) của mình rằng: trong mối quan hệ giữa Trung Quốc thời cổ
đại và các nước xung quanh, Triều Tiên và An Nam được coi là hai nước thân cận
nhất, song cảm quan của Trung Quốc đối với hai nước lại khác nhau khá nhiều.
Triều Tiên được khen là nước tòng thuận, còn An Nam bị chỉ trích là nước ―hay
10
sinh sự‖. Hay ví như Xiêm La, một nước cũng nằm khá gần Trung Quốc, nền chính
trị cũng gần tương tự như An Nam, nhưng ấn tượng về nước này trong con mắt của
chính quyền Trung Quốc khá tốt đẹp. Điều đó cho thấy An Nam là một đất nước
―có cá tính‖. Từ đó tác giả mong muốn có thể phác họa lại diễn biến, đặc trưng của
mối quan hệ giữa nhà Minh và An Nam thông qua việc nghiên cứu nhiều vấn đề
trong mối quan hệ giữa hai quốc gia từ nửa cuối thế kỉ XIV đến nửa đầu thế kỉ XVII
như: chính sách đối ngoại của nhà Minh đối với Đại Việt, xung đột biên giới, vấn đề
Chămpa, trao đổi kinh tế, xung đột văn hóa…Luận án này cũng dành một chương,
chương 4 với tiêu đề ―Mấy vấn đề về quan hệ tông phiên giữa nhà Minh và An
Nam‖ (có dung lượng 24 trang) để trình bày khái quát một số nét về ―quan hệ tông
phiên‖ giữa hai quốc gia (nghi thức cầu phong và sách phong, nghi lễ của sứ thần
Trung Quốc sang An Nam cũng như nghi lễ của sứ thần An Nam sang Trung Quốc,
cống vật và ban thưởng, đường sang triều cống, vấn đề người thế thân bằng vàng,
quan hệ kinh tế).
2.3. Các học giả Việt Nam
Lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ lâu đã được các học giả Việt
Nam quan tâm nghiên cứu. Nhiều lĩnh vực của mối quan hệ này như quan hệ chính
trị, quân sự, quan hệ kinh tế, văn hóa qua các triều đại đã được đề cập đến trong các
sách chuyên khảo như ―Việt Nam sử lƣợc‖ (1921) của Trần Trọng Kim, ―Lý
Thƣờng Kiệt‖ (1949) của Hoàng Xuân Hãn, ―Đất nƣớc Việt Nam qua các đời‖
(1964) của Đào Duy Anh, ―Lịch sử Việt Nam‖ (tập 1) (1971) do Ủy ban KHXH
Việt Nam tổ chức biên soạn…Quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước tuy
chưa được đề cập thành một vấn đề riêng, nhưng những mối quan hệ đa dạng, phức
tạp giữa Việt Nam và Trung Quốc trong lịch sử, được nghiên cứu trong các công
trình này, là cơ sở cho việc nghiên cứu bối cảnh quan hệ sách phong, triều cống
giữa hai nước trong các giai đoạn lịch sử cụ thể.
Trong số những công trình nghiên cứu gần đây về quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc có tác phẩm ―Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thế kỉ XV –
đầu thế kỉ XVI‖ (1995) của Tạ Ngọc Liễn. Đây là một trong những công trình đầu
tiên nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ở thời Lê
sơ. Trong công trình này, quá trình thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nhà Lê với nhà
Minh sau năm 1427, quan hệ sách phong, triều cống cũng như quan hệ buôn bán
giữa Việt Nam và Trung Quốc ở thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI đã được tác giả khôi
phục lại một cách chân thực dựa trên những nguồn sử liệu phong phú, tin cậy. Tác
giả cũng đã phân tích cơ sở tư tưởng của chế độ triều cống (đó là ―chủ nghĩa lấy
Trung Quốc làm trung tâm‖), vị trí và ý nghĩa của quan hệ sách phong, triều cống
trong quan hệ giữa hai nước cũng như địa vị của Việt Nam trong mối quan hệ này…