Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)
PREMIUM
Số trang
195
Kích thước
2.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
959

Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

i

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MINH ANH

QUAN HỆ DÕNG HỌ

CỦA NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH

(Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI, 2014

ii

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MINH ANH

QUAN HỆ DÕNG HỌ

CỦA NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH

(Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

Mã số: 62 31 03 02

TẬP THỂ HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS.VƢƠNG XUÂN TÌNH

2. TS. TRẦN VĂN HÀ

Hà Nội, 2014

iii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận án tiến sĩ: “Quan hệ dòng họ của ngƣời Nùng Phàn

Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn), tôi xin chân thành cảm ơn:

Ban lãnh đạo Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

đã tạo điều kiện về thời gian, lịch công tác để tôi hoàn thành luận án.

Các thầy cô giáo khoa Lịch sử, trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân

văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành

các chuyên đề của chương trình Thạc sĩ.

Khoa Dân tộc học thuộc Học viện Khoa học Xã hội đã giúp đỡ tôi trong quá

trình học tập và hoàn thành các thủ tục của khóa đào tạo.

Phòng nghiên cứu Lý luận và Chính sách dân tộc, Phòng nghiên cứu các dân

tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày –Thái và Kadai, Viện Dân tộc học đã tạo điều kiện

thuận lợi nhất để tôi được học tập các Chương trình nghiên cứu sinh khóa (2007 –

2012) và hoàn thành bản Luận án này.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới UBND các xã, cán bộ và nhân các thôn

thuộc các xã được khảo sát của Luận án, đão tạo điều thuận lợi, giúp đỡ tận tình

cho tôi trong suốt thời gian điền dã lấy tư liệu để viết Luận án từ năm 2007 đến

2013.

Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã khích lệ, động viên, tạo điều

kiện tốt nhất cho tôi khi thực hiện luận án.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Vương Xuân Tình,

TS. Trần Văn Hà, đã tận tình chỉ bảo tôi trong việc định hướng nghiên cứu, tiếp cận

lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, thu thập tư liệu và hiện thực hóa các ý tưởng

khoa học, để tôi hoàn thành bản Luận án này./.

Hà Nội, tháng năm 2014

Nghiên cứu sinh

Lê Minh Anh

iv

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các

số liệu điều tra là trung thực và chưa từng được ai công bố. Những quan điểm mà

Luận án kế thừa của những tác giả đi trước đều ghi rõ xuất xứ và tên tác giả đã đưa

ra luận điểm đó./.

Hà Nội, tháng năm 2014

Tác giả viết Luận án

NCS. Lê Minh Anh

v

MỤC LỤC

Trang

Mở đầu 1

Chƣơng 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý thuyết phƣơng pháp và

địa bàn nghiên cứu

6

1.1.Tổng quan nghiên cứu về quan hệ dòng họ 6

1.2. Một số quan niệm về quan hệ dòng họ và lý thuyết nghiên cứu 16

1.3. Phương pháp nghiên cứu và phân tích 24

1.4.Khung phân tích của luận án 27

1.5. Khái quát về tộc người và điểm nghiên cứu 28

Chƣơng 2: Dòng họ của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc 36

2.1. Quan niệm về dòng họ của người Nùng Phàn Slình 36

2.2. Người Nùng Phàn Slình với ba mối quan hệ dòng họ 39

2.3. Cấu trúc dòng họ của người Nùng Phàn Slình 41

2.4. Đặc điểm dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc 44

2.5. Vai trò cá nhân trong dòng họ của người Nùng Phàn Slình 49

Chƣơng 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngƣỡng 55

3.1. Quan niệm về tín ngưỡng của người Nùng Phàn Slình 56

3.2. Quan hệ dòng họ qua tang ma 58

3.3. Quan hệ dòng họ trong cưới xin 64

3.4. Quan hệ dòng họ trong lễ dựng và về nhà mới 70

3.5. Quan hệ dòng họ qua một số lễ nghi trong gia đình 71

3.6. Quan hệ dòng họ qua lễ tết cổ truyền 74

Chƣơng 4: Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế 77

4.1. Quan hệ dòng họ trong sản xuất nông nghiệp 77

4.2. Quan hệ dòng họ qua tương trợ kinh tế 81

Chƣơng 5: Quan hệ dòng họ với hệ thống chính trị cơ sở 104

5.1. Về hệ thống chính trị cơ sở 104

5.2. Quan hệ dòng họ trong hệ thống chính trị cấp xã và cấp thôn 106

vi

Chƣơng 6: Kết quả và bàn luận 129

6.1. Về tổ chức dòng họ 129

6.2. Về vai trò, chức năng của quan hệ dòng họ 132

6.3. Quan dòng họ với quyền lực ở hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay 136

6.4. Nhìn lại việc áp dụng thuyết Chức năng và thuyết Vốn xã hội trong

nghiên cứu

141

Kết luận 147

Danh mục các công trình đã công bố liên quan đến luận án 150

Tài liệu tham khảo 151

Phụ lục 165

vii

DANH MỤC BẢNG

Trang

Bảng 2.1: Số hộ gia đình thuộc các dòng họ ở điểm nghiên cứu 38

Bảng 2.2: Hệ thống từ thân tộc của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc 41

Bảng số 3.1: Thống kê phụ nữ xã Thanh Lòa lấy chồng qua biên giới

trong vòng 20 năm. 68

Bảng 4.1: Trợ giúp trong lễ lập bàn thờ mụ của gia đình ông Lương Văn

Báo, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa. 83

Bảng 4.2: Trợ giúp trong đám cưới của gia đình ông Lăng Văn Khái 88

Bảng 4.3: Trợ giúp trong đám cưới của gia đình ông Lương Văn Tứ 90

Bảng 4.4: Trợ giúp trong tang ma của gia đình ông Hoàng Văn Diện 99

Bảng 5.1: Đội ngũ cán bộ cấp xã của xã Thụy Hùng 106

Bảng 5.2: Đội ngũ cán bộ cấp xã của xã Gia Cát 109

Bảng 5.3: Đội ngũ cán bộ cấp xã của xã Thanh Lòa 111

Lược đồ 5.1: Quan hệ dòng họ với Bí thư Đảng ủy trong hệ thống chính

trị xã Gia Cát 114

Lược đồ 5.2: Quan hệ dòng họ của cán bộ xã Thanh Lòa với Chủ tịch

UBND xã 115

Lược đồ 5.3: Quan hệ dòng họ giữa các chức danh trong hệ thống chính

trị cơ sở xã Thanh Lòa 117

Bảng 5.4: Đội ngũ cán bộ thôn Sơn Hồng (xã Gia Cát) 119

Bảng 5.5: Đội ngũ cán bộ thôn Nà Pheo (xã Thanh Lòa) 120

Bảng 5.6: Đội ngũ cán bộ thôn Pò Nghiều (xã Thụy Hùng) 121

Bảng 6.7: Danh sách hộ nghèo và cận nghèo xã Thanh Lòa năm 2013 126

viii

BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BCH: Ban chấp hành

CB: Cán bộ

CNH - HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐHKHXH &NV: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn

ĐTH: Đô thị hóa

MTTQ: Mặt trận tổ quốc

Nxb: Nhà xuất bản

VHTT: Văn hóa thông tin

UBND: Ủy ban nhân dân

VHXH: Văn hóa xã hội

KTNN: Kinh tế nông nghiệp

NCS: Nghiên cứu sinh

1

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Dòng họ là một thành tố trong văn hóa của tộc người và cộng đồng xã hội,

vì vậy, nó có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá ấy. Trong

một xã hội đang phát triển, nếu làng là cơ sở của văn hoá dân tộc thì dòng họ là

pháo đài kiên cố của cơ sở đó. Tại Việt Nam, quan niệm người trong dòng họ với

nghĩa “một giọt máu đào hơn ao nước lã” hay “một người làm quan cả họ được

nhờ” không chỉ ăn sâu trong tiềm thức dân gian làng xã người Kinh (Việt) tự bao

đời nay, mà cũng phổ biến ở nhiều dân tộc thiểu số khác. Dẫu quan hệ dòng họ có

những mặt trái, có thể làm mềm yếu các quan hệ nhà nước, pháp quyền, nhưng đó

lại là hạt nhân của đạo lý “tối lửa tắt đèn có nhau”, “chị ngã em nâng”...

Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ trong xã hội Việt Nam truyền

thống và đương đại từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu thuộc nhiều

lĩnh vực sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hoá học,... Các công trình

nghiên cứu khoa học về các vấn đề đó không chỉ giúp chúng ta nhận thức sâu sắc

hơn quá trình hình thành và phát triển của dòng họ mà còn góp phần tìm hiểu

những vấn đề lịch sử và văn hoá dân tộc. Ở xã hội hiện đại, nhiều giá trị văn hóa,

đạo đức truyền thống đã và đang bị biến dạng, thậm chí bị mai một. Sự phục hưng

văn hóa dòng họ theo hướng tích cực đã đóng góp rất nhiều vào việc duy trì và

bảo lưu những giá trị văn hóa, đạo đức đặc sắc mà thế hệ đi trước đã dày công xây

dựng và vun đắp. Bằng chứng là, những vấn đề liên quan đến dòng họ và quan hệ

dòng họ được nghiên cứu thời gian qua đã có những đóng góp không nhỏ đối với

việc xây dựng quy ước thôn bản văn hóa ở địa bàn nông thôn. Vì vậy, việc nghiên

cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc xây

dựng những chính sách thiết thực đối với vấn đề phát triển Nông thôn - Nông

nghiệp - Nông dân nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp Công nghiệp hoá,

Hiện đại hoá (CNH - HĐH).

Tuy nhiên, việc nghiên cứu về quan hệ dòng họ ở nước ta trong thời gian qua

cũng còn một số hạn chế. Điểm hạn chế lớn nhất là trong nghiên cứu có xu hướng giản

2

lược hóa mối quan hệ dòng họ, và thường chỉ nghiên cứu quan hệ của một bề dòng họ,

tức dòng họ bên bố - nếu nghiên cứu cư dân theo chế độ phụ hệ, hoặc dòng họ bên mẹ -

theo chế độ mẫu hệ. Trên thực tế, hầu như bất cứ tộc người hay nhóm xã hội nào, quan

hệ dòng họ đều phong phú hơn thế, thường bao gồm 3 họ, đó là: họ bên bố, họ bên mẹ

và họ bên vợ/chồng. Tùy theo truyền thống của chế độ phụ hệ hay mẫu hệ mà vai trò

của dòng họ bên bố hay bên mẹ lớn hơn, song một điều không thể phủ nhận, mối quan

hệ dòng họ của mỗi cá nhân lúc trưởng thành (có vợ/chồng), là đều có mối quan hệ

dòng họ ba bên như vậy. Nghiên cứu theo tiếp cận này, đáng chú ý là của tác giả Cầm

Trọng khi xem xét quan hệ dòng họ của người Thái, song chủ yếu ông phân tích sâu

về cấu trúc, và bước đầu có đề cập đến chức năng chung, mà chưa có nghiên cứu

thực nghiệm.

Hiện nay, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ ở

Việt Nam hiện nay, vai trò và chức năng của quan hệ dòng họ ở cả người Kinh

(Việt) và các tộc người thiểu số cũng đang có những đổi thay. Sự thay đổi này

được biểu hiện ở liên kết dòng họ, cơ chế vận hành trong các tổ chức dòng họ,

trong đó, vai trò của quan hệ dòng họ ở đời sống xã hội vẫn rất quan trọng,

nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu thấu đáo.

Người Nùng ở Việt Nam sinh sống chủ yếu tại các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn,

gồm nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm có một số đặc điểm văn hóa riêng, và việc

nghiên cứu quan hệ dòng họ của người Nùng nói chung trong luận án là điều khó có

thể thực hiện. Bởi vậy, chúng tôi chỉ lựa chọn một nhóm địa phương của người Nùng

trong địa bàn một huyện để khảo sát. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và qua tổng quan

tài liệu, chúng tôi đã lựa chọn nhóm Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn

làm đối tượng nghiên cứu cụ thể. Đây là một nhóm Nùng có dân số đông nhất trong số

các nhóm Nùng của huyện, cư trú chủ yếu ở các xã vùng biên, lại có cả mối quan hệ

dòng họ xuyên biên giới. Bước đầu khảo sát để đi tới quyết định lựa chọn nhóm địa

phương và địa bàn nghiên cứu, chúng tôi còn được biết, tính cố kết của người Nùng

Phàn Slình mạnh hơn một số nhóm Nùng khác trong vùng.

Hơn nữa, để phù hợp với nhiệm vụ công tác ở Phòng Nghiên cứu các dân tộc

nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và Ka đai thuộc Viện Dân tộc học, và phù hợp với trải

3

nghiệm nghiên cứu của cá nhân, tôi đã quyết định chọn hướng nghiên cứu về quan hệ

dòng họ của người Nùng làm luận án tiến sĩ nhân học văn hóa.

Nghiên cứu về quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình, trên cơ sở kế thừa,

cập nhật những kết quả nghiên cứu trước đây về những vấn đề liên quan đến quan hệ

dòng họ ở Việt Nam, và ở thế giới - song còn ở mức độ hạn chế, bởi khó khăn về tiếp

cận tài liệu. Mặt khác, tôi cố gắng khắc phục thiếu sót về sự giản lược trong xác định

quan hệ dòng họ của một số công trình nghiên cứu trước về lĩnh vực này.

Trên cơ sở ý nghĩa khoa học và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu nêu trên, tôi

đã quyết định lựa chọn: “Quan hệ dòng họ của ngƣời Nùng Phàn Slình (Nghiên

cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)” làm đề tài luận án tiến sĩ nhân học văn hóa

của mình.

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Luận án được thực hiện nhằm đạt tới các mục tiêu sau:

- Tìm hiểu cấu trúc quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao

Lộc, tỉnh Lạng Sơn;

- Xem xét chức năng của quan hệ dòng họ đối với đời sống cá nhân, gia đình

và sự liên kết cộng đồng tộc người hiện nay;

- Tìm hiểu vai trò của quan hệ dòng họ và đề xuất khuyến nghị nhằm phát huy

yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người

Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới.

3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ ĐIỂM NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu những hoạt động liên quan đến quan hệ dòng

họ và mối quan hệ của cá nhân, gia đình - dòng họ trong các lĩnh vực: tín ngưỡng,

tương trợ, hợp tác kinh tế, giáo dục, văn hóa…

Đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình

ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đang diễn ra hiện nay và trong một số trường hợp,

có so sánh với thời kỳ trước khi tiến hành công cuộc Đổi mới (1986).

4

3.2. Địa điểm và mẫu nghiên cứu

Chúng tôi chọn ba điểm nghiên cứu thuộc ba xã khác nhau về địa lý, đặc

trưng kinh tế để tiến hành khảo sát thu thập dữ liệu. Điểm thứ nhất là thôn Sơn

Hồng thuộc xã Gia Cát1

, là một thôn thuần về hoạt động kinh tế nông nghiệp điển

hình của người Nùng Phàn Slình và không có hoạt động giao thương với biên giới.

Điểm thứ hai là thôn Pò Nghiều thuộc xã Thụy Hùng với đặc trưng là một địa bàn

hoạt động kinh tế thương mại buôn bán qua biên giới và kinh tế nông nghiệp, có

nhiều hộ gia đình sống dọc theo đường cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn. Điểm thứ ba là

thôn Nà Pheo thuộc xã Thanh Lòa, là một thôn giáp biên, thường xuyên có số lượng

lao động làm thuê qua biên giới theo mùa vụ và có những mối quan hệ với người

đồng tộc ở bên kia biên giới.

4. CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Nhằm giải quyết những mục tiêu mà luận án đã đặt ra, chúng tôi nêu lên một

số câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu sau đây:

1. Cấu trúc dòng họ và quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình tại địa

bàn nghiên cứu đang vận hành như thế nào?

2. Chức năng của quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình trong bối

cảnh kinh tế thị trường và hội nhập hiện nay ra sao?

3. Những tác động tích cực và tiêu cực của quan hệ dòng họ đến sự phát triển

kinh tế - xã hội ở địa phương như thế nào?

4. Giả thuyết rằng, trong bối cảnh hiện tại quan hệ dòng họ của người Nùng

Phàn Slình tại các điểm nghiên cứu có vai trò đậm nét trong hoạt động tín ngưỡng,

nhưng mờ nhạt hơn trong hoạt động kinh tế và vẫn chi phối hệ thống chính trị cơ sở.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

Luận án được thực hiện sẽ có những đóng góp chủ yếu sau:

- Trên cơ sở nghiên cứu ba chiều của quan hệ dòng họ, luận án trình bày một

cách toàn diện về cấu trúc và mối quan hệ dòng họ người Nùng Phàn Slình ở

1 Do một số trình bày và phân tích trong luận án liên quan đến những vấn đề nhạy cảm của cá nhân và tập thể

tại nơi nghiên cứu nên chúng tôi đã thay đổi tên người hoặc viết tắt. Điều này cũng phù hợp với đạo đức nghề

nghiệp trong dân tộc học/ nhân học.

5

huyện vùng cao biên giới tỉnh Lạng Sơn trong bối cảnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hội nhập của nước ta;

- Góp phần làm rõ vai trò, ảnh hưởng của quan hệ dòng họ đến phát triển kinh

tế - xã hội và quan hệ tộc người của người Nùng Phàn Slình tại địa bàn

nghiên cứu;

- Xây dựng cơ sở khoa học và bước đầu đưa ra khuyến nghị nhằm phát huy

yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người

Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới hiện nay.

6. NGUỒN TÀI LIỆU CỦA LUẬN ÁN

Để hoàn thành luận án này, bên cạnh việc kế thừa các nguồn tài liệu đã công

bố về dòng họ và quan hệ dòng họ, đặc biệt là những công trình công bố về dân tộc

Nùng, trong đó có nhóm tộc người Nùng Phàn Slình của các học giả trong và ngoài

nước từ trước đến nay, chúng tôi còn sử dụng nguồn dữ liệu từ các ban, ngành ở cấp

tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, nguồn tài liệu điền dã do chính nghiên cứu sinh thu thập

tại thực địa, các điểm nghiên cứu trong suốt thời gian từ năm 2007 - 2013 đóng vai

trò then chốt cho việc hoàn thành luận án này.

Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình thu thập nguồn dữ liệu, chúng tôi đã

gặp không ít khó khăn, hầu như không có công trình nghiên cứu nào về quan hệ

dòng họ của người Nùng Phàn Slình xuyên biên giới, trong khi nghiên cứu sinh

chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu nhóm đồng tộc của họ bên kia biên giới, đặc biệt

là trong những năm gần đây.

7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN

Luận án ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần nội

dung chính được trình bày trong 6 chương:

Chương 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý thuyết, phương pháp và khái quát địa bàn

nghiên cứu.

Chương 2: Dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc

Chương 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngưỡng

Chương 4: Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế và tương trợ

Chương 5: Quan hệ dòng họ với hệ thống chính trị cơ sở

Chương 6: Kết quả và bàn luận

6

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,

PHƢƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan nghiên cứu về quan hệ dòng họ

Ở Việt Nam, dòng họ là một thiết chế xã hội quan trọng, trực tiếp góp phần tạo

nên kết cấu làng xã và rộng hơn nữa là đất nước, bởi gia đình - họ hàng - làng, nước

được coi như là sự tổng hòa của các mối quan hệ văn hóa - xã hội - chính trị - luật tục

trong xã hội truyền thống. Việc nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ có vị trí

quan trọng và đã có khá nhiều công trình nghiên cứu từ các góc độ dân tộc học/nhân

học, sử học, xã hội học, văn hóa học,… Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận án tiến

sỹ nhân học văn hóa, chúng tôi chỉ tập trung vào việc tổng quan những công trình

nghiên cứu về dòng họ thuộc lĩnh vực dân tộc học/nhân học là chính, sau nữa là những

nghiên cứu về lĩnh vực này của các khoa học gần gũi về đối tượng.

1.1.1. Các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trên thế giới và quan hệ dòng họ của

người Việt

Có thể nói rằng, nghiên cứu dòng họ là nền tảng cơ bản để tìm hiểu về quan

hệ xã hội của tộc người trong bất cứ xã hội nào, vì vậy, đã có nhiều nhà nghiên cứu

nước ngoài như Maine, McLennan và Morgan, Lévi-Strauss và Radcliffe-Brown,

Grant Evans... quan tâm đến. Lévi-Strauss đã xây dựng một lý thuyết về cấu trúc

thân tộc, trong đó hạt nhân là vấn đề “lớp hôn nhân”. Đóng góp lớn nhất của ông

chính là phát hiện và phân tích sâu sắc về quy tắc “cấm đoán loạn luân” và cũng là

người đưa ra nhiều luận giải về chế độ mẫu hệ, phụ hệ. Theo ông, hệ thống thân tộc

hôn nhân là một hệ thống trao đổi, trong đó, người chủ mưu là đàn ông, đàn bà là

những vật được trao đổi cho nên luôn luôn thụ động. Còn Radcliffe-Brown, từ

những trải nghiệm, khảo cứu của mình đã cho rằng, bản chất của một hiện tượng

thân tộc hiểu rộng là sự thành lập những đơn vị có cấu trúc chặt chẽ và trường tồn

trong thời gian, nghĩa là có trước những cá nhân thành viên của những đơn vị ấy và

tồn tại sau khi những cá nhân ấy đã chết [57]. Trong khi đó, Grant Evans lại nêu đặc

điểm cụ thể hơn về chức năng của dòng họ ở châu Á trong tác phẩm Bức khảm văn

7

hóa châu Á là những thực thể chính trị có thể hoặc không có thể phát triển tùy theo

tình thế chính trị và kinh tế của các thành viên có khả năng trong dòng họ [37].

Ở Việt Nam, dòng họ cũng được đề cập từ khá sớm. Vào thời phong kiến,

những ghi chép về dòng họ chủ yếu được tìm thấy trong các thư tịch cổ Trung Quốc,

các bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,

Đại Nam thực lục... Các bộ sách này chủ yếu mới chỉ có tính chất hệ thống lại, mô tả

về phả hệ của các dòng họ chứ chưa đi sâu tìm hiểu về cấu trúc, nội dung, ảnh hưởng

của dòng họ.

Trước năm 1945, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu có giá trị tham

khảo như của Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Pierre Gourou… Lần đầu tiên, trong

Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Pierre Gourou đã tiến hành điều tra, thống kê tên

các dòng họ ở vùng châu thổ Sông Hồng (202 họ) và bước đầu có những nhận xét sơ

bộ về tên họ và sự phân bố tại các làng xã, vùng miền [41].

Từ năm 1945 đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dòng họ được xuất

bản, trong số đó phải kể đến nghiên cứu của nhà dân tộc học Trần Từ. Ông cho rằng,

dòng họ đóng một vai trò nhất định trong lịch sử xây dựng làng mới: những người đầu

tiên bỏ quê đi lập làng mới thường là họ hàng với nhau, thổ cư các gia đình thành viên

thường áp sát nhau và chiếm vị trí trung tâm trên khu đất mới. Dòng họ còn đóng vai trò

“một chỗ dựa tinh thần, và đôi khi chính trị nữa” (chứ “không phải một viện trợ vật chất”)

cho các thành viên trong làng Việt cổ truyền vốn chằng chịt vô vàn mâu thuẫn [115].

Từ góc nhìn xã hội học, Trịnh Thị Quang lại cố gắng tìm hiểu vai trò của dòng

họ và quan hệ dòng họ mà tác giả gọi là “tổ chức thân tộc”. Tác giả cho rằng, quan hệ

thân tộc vốn thường đảm nhận ba chức năng: là một cộng đồng pháp lý, một cộng

đồng kinh tế, cộng đồng sinh sống, đạo đức và tôn giáo; và chú ý xem xét những

chức năng đó đã và đang biến đổi như thế nào [88].

Dựa trên sự tiếp cận đồng đại và lịch đại, Ngô Thị Chính đã phân tích hệ thống

thân tộc người Việt truyền thống qua các chiều cạnh của ngôn ngữ cũng như qua các

tài liệu điền dã dân tộc học để đưa ra một bức tranh khá đầy đủ về hệ thống thân tộc

phụ hệ truyền thống của người Việt [23].

Từ góc nhìn văn hóa học, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã có nhận định tổng quan

về thân tộc, dòng họ của người Việt rằng, một người Việt Nam bình thường có ba họ:

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!