Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay
PREMIUM
Số trang
193
Kích thước
1.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1406

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ, MÔ HÌNH

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG

THÔN VÀ KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC …………….. 6

1.1. Một số vấn đề lý luận về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn …… 6

1.2. Mô hình và bài học kinh nghiệm trong và ngoài nước…………………. 45

Chương 2: THỰC TRẠNG CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH

BẮC NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY ………………………………….. 66

2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh tác động đến

quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn …………………… 66

2.2. Chủ trương chính sách của trung ương và của tỉnh Bắc Ninh về CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn …………………………………………… 70

2.3. Kết quả thực hiện chủ trương chính sách về CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn ở tỉnh Bắc Ninh …………………………………………….. 77

2.4. Một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn tỉnh Bắc Ninh …………………………………………………….. 126

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH CNH, HĐH NÔNG

NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH BẮC NINH ĐẾN NĂM 2015 …………. 132

3.1 Những thuận lợi, khó khăn và thách thức đối với quá trình CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh …………………… 132

3.2. Những quan điểm đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn tới ………………………………… 136

3.3. Phương hướng đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh đến

năm 2015 …………………………………………………….. 139

3.4. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015 ..................................... 148

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................. 184

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ . ................. 186

DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO ................................................................. 187

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn nói riêng là một quá trình tất yếu để chuyển một nền nông

nghiệp lạc hậu thành một nền công nghiệp hiện đại. Ở nhiều quốc gia trên thế

giới quá trình này diễn ra và một số nước thành công. Mấy thập kỷ gần đây,

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở những nước công

nghiệp mới (NICs) đã tiến hành cũng được luận bàn, khái quát thành kinh

nghiệm và mô hình công nghiệp hoá khác nhau.

Ở Việt Nam, vấn đề công nghiệp hoá, trong đó có việc đưa nông

nghiệp lên sản xuất lớn đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra từ những năm 60

của thế kỷ trước, tuy đã đạt một số thành tựu đáng kể nhất là những năm đổi

mới vừa qua, nhưng đến nay nông nghiệp, nông thôn vẫn là khu vực còn

nhiều khó khăn, trở ngại.

Bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, giữ vị trí quan trọng trong

toàn bộ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đạt mục

tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng

hiện đại. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là cần phải phân tích sâu sắc thực trạng kinh

tế nông nghiệp, nông thôn và từ đó đề ra các giải pháp để đẩy nhanh quá trình

này trong giai đoạn tới.

Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà

Nội, là một trong tám tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Những

năm đổi mới vừa qua, cùng với những chính sách của Đảng và Nhà nước về

nông nghiệp và nông thôn, tỉnh Bắc Ninh đã có những chủ trương, chính sách

và biện pháp tác động thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn và mang lại những thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội.

Tuy nhiên, xét động thái công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông

thôn tỉnh Bắc Ninh vẫn bộc lộ không ít những hạn chế và bất cập về cơ chế

chính sách và những giải pháp hữu hiệu cần phải được quan tâm giải quyết.

2

Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề ra chủ

trương, chính sách và những giải pháp cho quá trình đẩy nhanh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, nghiên cứu sinh chọn đề tài luận án

tiến sĩ: “Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp”

làm nội dung nghiên cứu của luận án.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Những năm qua vấn đề nông nghiệp, nông thôn đã được nhiều nhà

khoa học, tập thể quan tâm nghiên cứu. Đã có khá nhiều công trình thuộc

nhiều chuyên ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau đề xuất phương hướng và đưa

ra những giải pháp tích cực nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn như:

- Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX

tháng 3 năm 2002 về: “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn, thời kỳ 2001 - 2010”.

- Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn: “Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn Việt Nam”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam: “Một số vấn đề về

công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn

thời kỳ 2001 – 2020”. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội năm 2001.

- GS.TS Đỗ Hoài Nam: “Một số vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá

ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2004.

- GS.TS Nguyễn Kế Tuấn: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi”. Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia, Hà Nội năm 2006.

- TS Mai Thị Thanh Xuân: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn ở Bắc Trung Bộ”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Hội năm 2004.

- GS.TS Nguyễn Đình Phan: “Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông

Hồng”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002

3

- TS Đặng Kim Sơn: “Công nghiệp hoá từ nông nghiệp, lý luận thực tiễn và

triển vọng áp dụng ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội năm 2001.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều tập trung vào phân tích

các khía cạnh từ những vấn đề về lý luận cơ bản, vai trò, yếu tố tác động,

sự cần thiết và nội dung của công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp

hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Một số công trình đề cập định

hướng chiến lược phát triển công nghiệp nông thôn; có công trình khoa

học đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí bước đi, cơ

chế chính sách của công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Có công

trình nghiêu cứu và đặt vấn đề khá cụ thể về phương hướng, nội dung và

giải pháp thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn

hoặc vấn đề phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Các

công trình đã nghiên cứu và được công bố chủ yếu là phân tích, đánh giá

tình hình hiện nay trên phạm vi cả nước hoặc một vùng kinh tế của đất

nước và đề xuất các giải pháp cho những năm tới. Song có lẽ cho tới nay

chưa có một luận án, công trình nào nghiên cứu, đánh giá về công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh theo một quá

trình lịch sử từ năm 1986 đến nay một cách tương đối đầy đủ và có hệ

thống. Trong quá trình nghiên cứu và qua thực tiễn công tác của mình, tác

giả luận án mong muốn được góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về lý

luận, đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp để thúc đẩy

nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.

3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở hệ thống hoá và làm sáng tỏ

những vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Luận án phân tích thực trạng và đề ra phương hướng, mục tiêu và những giải pháp

chủ yếu để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn Bắc Ninh trong giai đoạn tới: Phấn đấu đến năm 2010 Bắc Ninh là một tỉnh

phát triển khá trong cả nước, đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp

theo hướng hiện đại.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Luận án lấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn tỉnh Bắc Ninh làm đối tượng nghiên cứu.

- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề rất

rộng lớn và phức tạp, phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào những

nội dung cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn;

phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới, phát triển các khu, cụm

công nghiệp làng nghề; xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn;

phát triển nguồn nhân lực…thời gian từ năm 1986, mà chủ yếu từ năm 1997

đến nay (sau khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập).

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp phân tích, tổng hợp;

phương pháp thống kê, mô hình hoá và tiếp cận hệ thống; phương pháp khảo

sát, điều tra thực tế.

6. Những đóng góp khoa học của luận án

- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn và kinh nghiệm một số nước, một số tỉnh .

- Phân tích, đánh giá thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn và tác động của nó đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội

ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986, mà chủ yếu từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay,

trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn địa phương.

- Xây dựng được quan điểm phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc

Ninh, đồng thời đưa ra phương hướng, mục tiêu, đề xuất các giải pháp mang

tính khoa học phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương và sự phát triển

chung của cả nước nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn của tỉnh đến năm 2015.

- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài

liệu tham khảo trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách phát triển

nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh

5

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án

kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn và kinh nghiệm trong và ngoài nước.

Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp đẩy nhanh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.

6

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP,

NÔNG THÔN VÀ KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG

NGHIỆP, NÔNG THÔN

1.1.1. Thực chất và sự cần thiết công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn

1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá

- Các quan niệm về công nghiệp hoá

Mỗi phương thức sản xuất đều có cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng

với nó. Cơ sở vật chất kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực

lượng sản xuất để sản xuất ra của vật chất, nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày

càng đa dạng của xã hội.

Sự biến đổi và phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của tiến bộ

khoa học - kỹ thuật, năng lực và quy mô tích luỹ, sự tác động của quy luật

nhân khẩu, quan hệ kinh tế đối ngoại... là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất

lớn đến trình độ của cơ sở vật chất - kỹ thuật. Ngoài ra, tính chất và trình độ

của các quan hệ sản xuất, có ảnh hưởng không nhỏ và có mối quan hệ hữu cơ

đối với cơ sở vật chất - kỹ thuật.

Nói đến cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó

là nói đến trình độ, sự vận động và biến đổi của nó theo xu hướng nào.

Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước

chủ nghĩa tư bản là kỹ thuật thủ công, lạc hậu.

Chủ nghĩa tư bản xuất hiện, với những bước chuyển biến có tính quy

luật của nó, tất yếu đưa sản xuất dựa trên kỹ thuật thủ công lên hiện đại, công

nghiệp đại cơ khí. Vì vậy, đặc trưng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư

bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá với trình độ khoa học - kỹ thuật cao.

Đối với những nước xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ

thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to

7

lớn và là một yêu cầu khách quan. Bởi vì, cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền

sản xuất lớn hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật, công nghệ ngày

càng cao hơn, hiện đại hơn. Điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ, những yếu tố

của tư liệu sản xuất được cơ khí hoá và ngày càng hiện đại hoá, mà còn ở

trình độ công nghệ tiên tiến và thường xuyên đổi mới.

Vậy có thể khái quát: “Cơ sở vật chất của nền sản xuất hiện đại, chỉ có

thể là nền đại công nghiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ

khoa học – công nghệ ngày càng phát triển cao...”[20]. Để có được cốt vật

chất kỹ thuật như vậy, tất cả các nước phải tiến hành xây dựng nó. Nói cách

khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại là quy

luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển. Công

nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất - kỹ

thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.

Trong lịch sử, nhiều nước đã tiến hành công nghiệp hoá, ở mỗi nước,

quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra khác nhau về bước đi, tốc độ và nội

dung cụ thể. Nước Anh đã tiến hành công nghiệp hoá trong những điều kiện

hoàn toàn khác với hiện nay. Đó là nước tiến hành công nghiệp hoá đầu tiên.

Nước Anh chỉ có thể bắt đầu công nghiệp hoá từ nông nghiệp, tích luỹ vốn,

mở rộng thị trường, tìm kiếm nguồn lao động... và phải bằng những biện pháp

cưỡng chế tàn bạo.

Trong bộ Tư bản, C.Mác có đề cập “...những người nông dân bị tước

đoạt bằng vũ lực, bị xua đuổi và bị biến thành những kẻ lang thang lại bị

người ta dùng những đạo luật kỳ quái đánh đập, đóng dấu bằng sắt nung đỏ,

tra tấn để ghép vào một kỷ luật cần thiết cho chế độ làm thuê...”[12]

Hơn nữa, nước Anh vì là nước đầu tiên tiến hành công nghiệp hoá, nên

phải bắt đầu tự nghiên cứu, tự sáng tạo, tự áp dụng vào sản xuất và công nghiệp

hoá là một con đường vừa dài, vừa gian nan. Nước Anh đã mất khoảng 100

năm với sự bóc lột, tước đoạt tàn bạo hàng triệu người lao động mới đạt được

nền công nghiệp dẫn đầu thế giới vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.

Nước Mỹ đi sau đã học tập kinh nghiệm công nghiệp hoá của nước

Anh, đã nhập khẩu được kỹ thuật, đã thu hút được vốn, lao động, kỹ thuật

8

công nghệ từ Châu Âu chuyển sang và có thị trường Châu Âu, Châu Á, Châu

Mỹ. Đó là những lý do chính làm rút ngắn thời gian công nghiệp hoá ở Mỹ

xuống còn khoảng 80 năm.

Nước Nhật tiến hành công nghiệp hoá khoảng 60 năm với những đặc

điểm nổi bật là: Nhật đã kế thừa kỹ thuật, công nghệ và vốn thị trường của

Châu Âu và Châu Mỹ. Đồng thời, người Nhật đã sử dụng những ưu thế vốn

có của nền văn hoá và xã hội Nhật vào quá trình công nghiệp hoá.

Ở Liên Xô (cũ), quan niệm cho rằng: công nghiệp hoá là quá trình xây

dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là

phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành cơ khí, do đó tỷ

trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn.

STa-Lin viết: “Quan trọng hơn, vì nếu không phát triển công nghiệp

nặng, thì chúng ta không thể xây dựng được ngành công nghiệp nào cả, chúng

ta không thể thực hiện được một công cuộc công nghiệp hoá nào cả”.[41]

Theo V.I.Lê Nin: “Chỉ có đại công nghiệp cơ khí mới có thể làm cho

công nghiệp và nông nghiệp hoàn toàn tách rời nhau... chính nền sản xuất

bằng máy móc, đã cắt đứt hẳn mối quan hệ giữa công nhân với ruộng đất”

[54]. Như vậy, công nghiệp hoá ở Liên Xô (cũ) trong giai đoạn đó là phù hợp

với bối cảnh lịch sử của thế giới và tình hình trong nước. Mô hình công

nghiệp hoá này đã đem lại những kết quả đáng kể, song bên cạnh đó cũng còn

nhiều hạn chế mà đến thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX đã có sự điều chỉnh cho

hợp lý.

Các nước và lãnh thổ (NICs) Đông Á đi sau, rút ngắn quá trình công

nghiệp hoá hơn nữa, chỉ còn khoảng 40 năm. Do họ đã tiếp thu được kinh

nghiệm của cả Châu Âu, Châu Mỹ và Nhật Bản. Ngày nay, một số nước

ASEAN còn có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá này xuống còn khoảng

30 năm, trong đó Đài Loan là vùng lãnh thổ tiến hành công nghiệp hoá thành

công.

Từ thực tiễn về công nghiệp hoá của đất nước, có thể khái quát một số

quan niệm về công nghiệp hoá:

+ Quan niệm đơn giản nhất cho rằng: công nghiệp hoá là đưa tính đặc

9

thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà

máy, các loại hình công nghiệp. Theo quan điểm này, có những điểm chưa

hợp lý, vì thứ nhất là nội dung quan niệm này gần như đồng nhất quá trình

công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ hai là không thể

hiện được tính lịch sử của qúa trình công nghiệp hoá. Thứ ba là không thể

hiện được mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá. Quan niệm về công nghiệp

hoá nêu trên được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công

nghiệp hoá của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ và do có những điểm chưa hợp

lý, nên quan niệm này ít được vận dụng trong thực tiễn.

+ Quan niệm Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thì

khi tiến hành công nghiệp hoá nhấn mạnh là phát triển công nghiệp nặng. Cho

rằng: công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả

năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với trung

tâm là chế tạo máy. Với đường lối công nghiệp hoá như vậy, công nghiệp nặng

có vai trò đặc biệt quan trọng và trong một chừng mực nhất định nó phù hợp

với hoàn cảnh Liên Xô khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá: chủ nghĩa đế

quốc bao vây, chống đối, không có sự trợ giúp từ bên ngoài, trong khi yêu cầu

phải xây dựng một nền sản xuất lớn, hiện đại và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.

Liên Xô cần thực hiện công nghiệp hoá với tốc độ nhanh, phải tập trung

vào phát triển công nghiệp nặng, nhằm đảm bảo các nhu cầu trong nước. Do vậy,

chủ trương về công nghiệp hoá này chỉ đúng với giai đoạn lịch sử Liên Xô lúc đó.

Sẽ sai lầm nếu hiểu công nghiệp hoá như vậy trong mọi hoàn cảnh, mọi phương

diện. Bởi vì, công nghiệp hoá không chỉ đơn thuần là phát triển đại công nghiệp.

+ Quan niệm mới về công nghiệp hoá: năm 1963, tổ chức phát triển

công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra quan niệm:

Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế. Trong quá trình này, một

bộ phận nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế

nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế

này, có một bộ phận công nghiệp chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư

liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển

với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ về kinh tế -xã hội [23].

10

Do đó, công nghiệp hoá không chỉ hiểu là quá trình phát triển nền

kinh tế dựa trên trình độ kỹ thuật, công nghệ hiện đại mà còn là quá trình

phát triển, đảm bảo tạo ra cơ cấu sản phẩm vật chất, bao gồm các điều

kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt, đảm bảo các mục tiêu phát triển

kinh tế và sự tiến bộ xã hội.

- Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Kinh nghiệm về công nghiệp hoá của các nước đi trước và qua thực tế

kiểm nghiệm, kết hợp với sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ và

quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, quan niệm về công nghiệp

hoá, hiện đại hoá được hiểu như sau: Công nghiệp hoá chính là một cuộc

cách mạng về lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ

sản xuất, tăng năng suất lao động. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên

cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá

trình công nghiệp hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá luôn gắn

liền với hiện đại hoá.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình trang bị kỹ thuật và công

nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành giữ vị trí quan

trọng, biến một nước có nền kinh tế kém phát triển thành một nước có nền

kinh tế phát triển, có công nghiệp hiện đại.

Hiện nay, ở Việt Nam công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo quan điểm

của Đảng Cộng sản Việt Nam là:

Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là

chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện

và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và

tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [22].

Quan niệm này nói lên phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của công

nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền được hai

phạm trù, không thể tách rời là công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Xác định vai

trò không thể thiếu được của khoa học-công nghệ trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hóa.Công nghiệp hoá và hiện đại hoá có mối quan hệ mật

11

thiết với nhau, quá trình tiến hành công nghiệp hoá là cái đích để đạt tới

hiện đại hoá. Việc tiến hành công nghiệp hoá phụ thuộc nhiều vào điều

kiện và hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình chung của khu vực và thế

giới. Xu hướng hiện nay ở các nước đang phát triển là vừa tiến hành công

nghiệp hoá theo những kinh nghiệm truyền thống, nhưng đồng thời cũng

thường xuyên cập nhật, hội nhập những thành tựu khoa học- kỹ thuật mới

nhất, để vừa đảm bảo phát triển tuần tự, vừa phát triển nhảy vọt ở những

thời điểm, những ngành nghề có điều kiện và khả năng.

1.1.1.2. Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển

nền nông nghiệp truyền thống phát triển thành nông nghiệp hiện đại, về

thực chất là hiện đại hoá các biện pháp sản xuất nông nghiệp, hiện đại

hoá công nghệ sản xuất, hiện đại hoá quản lý sản xuất kinh doanh và

hiện đại hoá lực lượng lao động ngành nông nghiệp; làm thay đổi căn

bản tính chất, phương thức sản xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức

quản lý sản xuất của một nền nông nghiệp sản xuất tự cung, tự cấp, dựa

chủ yếu vào điều kiện tự nhiên với kỹ thuật thủ công sang một nền nông

nghiệp sản xuất hàng hoá với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, trong điều

kiện thương mại hoá toàn cầu và phải đảm bảo cho sự phát triển bền

vững về tự nhiên, kinh tế- xã hội.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một bộ phận của công

nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu của nó là đưa máy móc thiết bị và

phương pháp sản xuất công nghiệp cùng với các hình thức tổ chức sản xuất kiểu

công nghiệp vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nhằm khai thác triệt để lợi thế

của mỗi ngành, trên cơ sở đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm tiêu dùng

và xuất khẩu. Nội dung này được cụ thể hoá trên các mặt cơ giới hoá, điện khí

hoá, thuỷ lợi hoá, sinh học hoá trong các ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp,

thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đồng thời làm

tan rã dần nền nông nghiệp chậm phát triển và nông nghiệp truyền thống.

12

Lịch sử phát triển nông nghiệp thế giới và các nước trong khu vực đều

chứng minh rằng, muốn có một nền nông nghiệp bền vững, năng suất lao

động cao không thể dựa vào nông cụ thô sơ và sức kéo trâu bò là chủ yếu. Chỉ

có cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá mới tạo ra nền nông

nghiệp hàng hoá, có chất lượng sản phẩm cao, có quy mô lớn gắn với công

nghiệp chế biến và xuất khẩu. Mặt khác, nông nghiệp không thể tự cải tạo kỹ

thuật, không thể tự mình giải quyết vấn đề phát triển. Sự phát triển của nông

nghiệp được quyết định bởi bản thân quá trình nền sản xuất xã hội thực hiện

được, quá trình phát triển với hai tiến trình thị trường hoá và công nghiệp hoá.

Đó là quá trình chuyển từ làn sóng nông nghiệp sang làn sóng công nghiệp.

Sự phát triển này khiến cho nông nghiệp mất vị trí nền tảng của nền kinh tế.

Quy luật chung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là làm giảm tỷ lệ

GDP của nông nghiệp trong cơ cấu chung nền kinh tế, lao động ngành nông

nghiệp có tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu lao động chung của các ngành kinh tế.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp diễn ra đồng thời với công

nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế của đất nước. Không thể tiến hành

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp bó hẹp trong quan niệm phát triển

trong phạm vi ngành nông nghiệp, mà nó phải gắn với sự phát triển và sự

chuyển đổi cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Chính sự phát triển công nghiệp, du

lịch, dịch vụ, cơ sở hạ tầng trong điều kiện hiện đại hoá làm thay đổi phương

thức sản xuất, cơ cấu của nền sản xuất xã hội và là sự thay đổi bản chất kinh tế

của nông nghiệp. Chuyển từ lĩnh vực tất yếu thành lĩnh vực kinh doanh, thành

cực tăng trưởng và bắt buộc phải tồn tại phát triển trong cơ chế thị trường.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp phải đảm bảo vai trò

duy trì và phát triển cảnh quan thiên nhiên, xã hội cho phù hợp với yêu cầu của

cuộc sống ở trình độ văn minh cao, trình độ văn hoá cao. Tái sản xuất hệ sinh thái,

duy trì phát triển môi trường sống bền vững. Giữ gìn và phát triển truyền thống

lâu đời của cộng đồng các dân tộc. Tham gia đắc lực trong việc hình thành sự kết

hợp hài hoà giữa cuộc sống công nghiệp, đô thị và thiên nhiên, giữa lao động thư

giãn và giải trí cho các tầng lớp dân cư và cộng đồng các dân tộc.

13

- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình thay đổi căn bản

phương thức hoạt động, cơ cấu kinh tế của nông thôn và thay đổi căn bản tầng

lớp gắn liền với sản xuất nông nghiệp là nông dân.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn làm thay đổi căn bản khái

niệm về nông thôn truyền thống: Nông thôn là một xã hội được tổ chức trên

nền tảng sản xuất nông nghiệp và dân cư của nó là những người làm ruộng.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra cùng với quá trình đô thị hoá,

đã làm thay đổi hệ thống xã hội ở các phương diện: tập trung hoá sản xuất, do

đó tập trung hoá dân cư, tăng một cách căn bản các quá trình trao đổi, giao

dịch dịch vụ, sự phát triển của xã hội tiêu dùng, phát triển mạnh hạ tầng kinh

tế - xã hội. Sự thay đổi này đã dẫn tới sự thay đổi căn bản trong phương thức

sản xuất và phương thức sinh hoạt xã hội, văn hoá.

Cùng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã cải tổ toàn bộ xã hội

theo diện mạo công nghiệp-thương mại hoà nhập vào xu thế toàn cầu hoá và sự

biến chuyển của xã hội nông thôn cũng không thể nằm ngoài xu hướng chung

này. Cơ cấu nghề nghiệp thay đổi, xu hướng cơ bản là chuyển từ hoạt động

nông nghiệp sang cơ cấu dân cư nghiêng về phi nông nghiệp, tỷ lệ hộ ở nông

thôn làm nông nghiệp giảm, tỷ lệ hộ phi nông nghiệp tăng lên. Tuy nhiên, ở các

nước phát triển, dân cư chuyển vào sống trong các đô thị ngày càng tăng cùng

với dân cư nông thôn giảm đi đáng kể (tỷ lệ dân nông thôn ở các nước công

nghiệp phát triển chỉ còn 10 – 25%).

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn liền với

yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ: tăng tỷ

trọng công nghiệp và dich vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Vì vậy, công

nghiệp hoá không thể thiếu phát triển nông nghiệp, các ngành nghề phi nông

nghiệp trên địa bàn nông thôn, áp dụng phương pháp công nghiệp vào sản

xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề lao động nông thôn, tạo

thêm việc làm để tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.

14

Qua quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến trình phát triển xã

hội đã có sự thay đổi căn bản, đó là quá trình phát triển đô thị hoá kèm theo

thu hẹp xã hội nông thôn, về mặt cơ sở hạ tầng cho sản xuất, cơ sở hạ tầng

văn hoá, đời sống (hạ tầng về kinh tế và xã hội) là sự thay đổi về chất của xã

hội nông thôn. Sự chênh lệch thu nhập, đời sống vật chất, văn hoá xã hội của

dân cư ở nông thôn và dân cư thành thị được thu hẹp.

Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là xây dựng nông

thôn mới có nông nghiệp hiện đại, công nghệ kỹ thuật cao, dịch vụ phát

triển theo hướng văn minh, hiệu quả. Quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp

với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng nông thôn

hoàn thiện, đời sống vật chất tinh thần của nông dân không ngừng được cải

thiện, xã hội ổn định và công bằng.

1.1.1.3. Sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

Trong khi coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm

trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta vẫn xác

định nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong những năm

trước mắt là: “coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông

thôn”[20]. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong quá

trình phát triển kinh tế-xã hội và những lợi thế phát triển của Việt Nam hiện

nay. Cụ thể, việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông

thôn ở nước ta xuất phát từ những cơ sở chủ yếu sau:

Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia

Lương thực là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đối với cuộc sống con

người, nhất là đối với một nước có truyền thống tiêu dùng lúa gạo như Việt

Nam. Vì vậy, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là nhân tố quan

trọng hàng đầu để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, nhờ đó thúc đẩy nhanh

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thực hiện phân công lại lao

động xã hội hợp lý hơn. Không chỉ ở Việt Nam, mà ngay cả các nước Đông

Á, sự phát triển nông nghiệp vẫn được coi là một trong các nhân tố quan trọng

tạo nên sự thần kỳ của họ trong nửa cuối thế kỷ trước.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!