Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.doc
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
PHẦN MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có một quá trình hơn 20 năm với
những kinh nghiệm rất phong phú ở nhiều thời kì. Trong môi trường kinh doanh
mới, với không ít khó khăn nhưng nhiều doanh nghiệp đã trụ được tại Việt Nam ,
vượt qua thử thách và thành công.
Khi chính sách Đổi mới bắt đầu được áp dụng, với những chính sách mới về đầu tư
nước ngoài không ngừng được cải thiện của Chính phủ, Việt Nam được các nhà đầu
tư nước ngoài đánh giá cao về tính ổn định và độ an toàn. Những yếu tố này đang
thực sự quan trọng đối với những khoản đầu tư lớn và dài hạn.
Không phải ngẫu nhiên mà thời gian gần đây, sự chú ý của doanh nghiệp quốc tế
tăng cao đối với Việt Nam . Với mức tăng trưởng GDP rất cao trong khu vực, cùng
với các ổn định về chính trị xã hội thì rõ ràng đây là những điều kiện thuận lợi cho
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam .
Trong giai đoạn phát triển, hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các
quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong
nước với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài. Trong cuộc cạnh tranh này, môi
trường đầu tư mà Nhà nước tạo ra là yếu tố tiên quyết. Chính phủ Việt Nam đã làm
tất cả để môi trường Đầu tư ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, thông thoáng, minh
bạch hơn và cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, Việt Nam hiện còn gặp nhiều khó khăn,
thách thức liên quan đến hạ tầng kinh tế còn nhiều yếu kém, chi phí sản xuất gia
tăng trong bối cảnh giá cả gia tăng chưa có dấu hiệu suy giảm; khan hiếm lao động
có tay nghề và cán bộ có trình độ quản lý tiên tiến, tổ chức và cán bộ ở các địa
phương còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, gây phiên hà,
nhũng nhiễu nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Trước những khó khăn còn tồn tại thì Chính Phủ đã có những biện pháp gì để cải
thiện môi trường đầu tư. Từ đó em quyết định lựa chọn nghiên cúu đề tài:
“ Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam ”
Đề tài gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam .
Thông qua đề tài này em mong muốn có thể góp một phần nhỏ những kiến thức của
mình cho công cuộc đổi mới và phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Với vốn hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn hẹp, em mong nhận được những đánh
giá, nhận xét, và cho ý kiến của các thầy cô nhằm hoàn thiện đề tài nghiên cứu này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
1.1. Khái niệm, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
đối với Việt Nam
1.1.1. Khái niệm
Theo quĩ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là một khoản đầu tư với những
quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được
lơi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà
đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại
nền kinh tế khác đó.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và phát triển UNCTAD cũng đưa ra một khái niệm
về FDI. Theo đó, nguồn vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông
qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh
nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh
nghiệp FDI, FDI gồm có 3 bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản
vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này hoặc mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một
khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh
hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong
thực thể kinh tế ấy.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: một doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách
pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có
quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền
kiểm soát công ty. Tuy nhiên không phải hầu hết các quốc gia đều sử dụng mốc
10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỉ lệ sở hữu tài sản
trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều
hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn vẫn chỉ là người đầu tư gián
tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu
tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để
được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc
gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế có thể hiểu là tài sản hữu hình
(máy móc, thiêt bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy
phép có giá trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm
quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như
vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
1.1.2. Các hình thức FDI.
1.1.2.1. Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử
dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay.
Nó là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có
hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác.
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình
thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính,
luật pháp và bản sắc văn hoá, hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn,
quản lý lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy
ra, hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung
ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
1.1.2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu
tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư
cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở
tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ
đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh
doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế luật pháp văn hoá,
mức độ cạnh tranh…
1.1.2.3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập
pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền
của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định từ việc thực hiện phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình kinh doanh
các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực
hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp
doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh
chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh
thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp
doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại, chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nước sở tại. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hơp doanh được
ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.1.2.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình
hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn
được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một
doanh nghiệp tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà
thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu,
cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền
sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có
thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả
mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất
định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn
bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển
giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là: đối
với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao lại cho nước chủ nhà và được Chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh
doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ
vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về công trình xây dựng và chuyển giao đó.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà thanh toán bằng
tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đó bỏ ra và một tỉ lệ lợi
nhuận hợp lí.
1.1.2.5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lý được thừa nhận rộng
rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ để
kiểm soát hoạt động quản lý và điều hành công ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng
hoặc lựa chọn thành viên hợp đồng quản trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới hạn hoạt
động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám sát hoạt động
quản lí của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền kiểm soát hoạt động
kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo rất nhiều thuận lợi:
- Cho phép các nhà đầu tư không chỉ huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư
khác nhau mà còn tạo điểu kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các
công ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiệu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu nhập và
các nghiệp vụ tài chính.
- Quản lí các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống nhất và
chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược điều phối các
hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.
- Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục đầu
tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các công ty
con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
- Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối
ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển (R&D)…
1.1.2.6. Hình thức công ty cổ phần
Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn) là doanh nghiệp trong đó
vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi
vốn góp vào doanh nghiệp, cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với số lượng tối đa
không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của
công ty cổ phần là nó có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám
đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu
trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia giám sát quản lý hoạt dộng của cty
cổ phần. Đại hôi cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết là cơ quan quyết
định cao nhất của công ty cổ phần.
Ở một số nước khác, cty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài được thành lập
theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của doanh
nghiệp trong nước cổ phần hoá.
1.1.2.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở
chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi công ty con
thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty con thường giới hạn
trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm của chi nhánh theo quy
định của một số nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản của chi nhánh, mà
còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài. Chi nhánh
được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản chi phí thành lập ban
đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn
được khấu trừ một phần các chi phí quản lý của công ty mẹ ở nước ngoài vào phần
thu nhập chịu thuế ở nước sở tại.
Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập công ty con.
Do không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi nhánh không phải tuân
thủ theo các quy định về thành lập công ty, thường chỉ thông qua việc đăng kí tại
các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà.
1.1.2.8. Hình thức công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài
các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là
cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của cty; thành viên góp vốn chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của cty trong phạm vi số vốn góp vào cty. Cty hợp
danh không được phát hành bất kì loại chứng khoản nào. Các thành viên hợp danh
có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty, còn thành viên góp
vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty nhưng
không được tham gia quản lý cty và hoạt động kinh doanh nhân danh cty.
1.1.2.9. Hình thức công ty mua lại và sát nhập (M&A)
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung vào các lĩnh
vự công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển.
Mục đích chủ yếu :
- Khai thác lợi thế của thị trường mới mà hoạt động thương mại quốc tế hay đầu tư
mới theo kênh truyền thống không mang lại hiệu quả mong đợi. Hoạt động M&A
tạo cho các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng hoạt động ra thị trường nước
ngoài.
- Bằng con đường M&A, các TNC có thể sáp nhập các cty của mình với nhau, hình
thành một cty khổng lồ hoạt động trong nhiều lĩnh vự hay các cty khác nhau cùng
hoạt động trong một lĩnh vực có thể sáp nhập lại nhằm tăng khả năng cạnh tranh
toàn cầu của tập đoàn.
- Các cty vì mục đích quốc tế hoá sản phẩm muốn lấp chỗ trống trong hệ thống
phân phối của họ trên thị trường thế giới.
- Thông qua con đường M&A các ty có thể giảm chi phí từng lĩnh vực nghiên cứu
và phát triển sản xuất, phân phối và lưu thông.
- M&A tao điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và cơ
cấu ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó, hình thức này đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển công nghiệp ở mọi quốc gia.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam
(nước nhận đầu tư).
1.1.3.1. Tác động tích cực của FDI.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã kịp thời bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ
của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”. Đó là: Thu nhập
thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là thu nhập
thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải
vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng
trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác.
Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển là vốn đầu
tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới
công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập,
tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì hậu quả
khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước
ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá vào cái “vòng luẩn quẩn” đó. Đặc
biệt là FDI: nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ
cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi
nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn