Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may trong điều kiện đã là thành viên chính
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Đề án môn học
Phần Mở Đầu
Năm 2007, Việt Nam kỷ niệm tròn một năm gia nhập vào tổ chức thương
mại thế giới WTO. Một năm trôi qua đã tạo nên những cơ hội rất lớn cho ngành
dệt may phát triển, bên cạnh đó cũng là nhiều khó khăn thách thức mà ngành dệt
may đã phải đương đầu. Với tư cách là một trong các ngành hướng ra xuất khẩu,
ngành dệt may Việt Nam đã và đang là nguồn cung cấp hàng may mặc tiềm
năng cho các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, thu hút nhiều
sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Quá trình hội nhập WTO, các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam có thêm nhiều cơ hội tiếp cận với công nghệ mới, kỹ
thuật tiên tiến và được tiếp cận rộng hơn với thị trường quốc tế, có cơ hội hợp
tác phát triển tốt và bình đẳng hơn. Bên cạnh những cơ hội, các doanh nghiệp
dệt may cũng sẽ phải chịu thêm nhiều sức ép cạnh tranh, không chỉ cạnh tranh
với các doanh nghiệp dệt may nước ngoài để thâm nhập được vào thị trường của
họ, mà còn cạnh tranh với họ trên chính thị trường nội địa.
Trong khuôn khổ đàm phán về thương mại, dệt may và nông nghiệp được
đề cập nhiều nhất và thu hút được sự quan tâm nhiều nhất vì nó ảnh hưởng tới
vấn đề việc làm và thu nhập cho người nghèo. Riêng ở Việt Nam số lao động
trong ngành dệt may hiện nay vào khoảng hơn 2 triệu lao động và dự kiến sẽ
tăng lên đến 3,5-4 triệu lao động vào 2010. Theo đó trong đàm phán, một số đối
tác quan tâm đến xuất khẩu hàng dệt may đã gây sức ép đòi Việt Nam phải giảm
thuế đối với hàng dệt may thành phẩm (hiện nay Việt Nam duy trì cách thức
đánh thuế leo thang tức là áp dụng mức thuế càng cao đối với hàng có mức độ
chế biến càng lớn). Nhiều khả năng mức thuế đối với hàng dệt may khi gia nhập
WTO sẽ phải giảm để đáp ứng yêu cầu của các đối tác này.
Trước khi đi vào phân tích tác động của ngành dệt may khi gia nhập WTO
chúng ta cần tìm hiểu một chút về ngành này. Ngành dệt may Việt Nam là một
khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chuỗi giá trị của ngành này được chia làm 6
công đoạn cơ bản:
Phạm Thùy Nhung 1 Lớp: Thương mại quốc tế_K46
Đề án môn học
+ Công đoạn cung cấp sản phẩm thô, bao gồm: các sợi tự nhiên và nhân tạo…
+ Công đoạn sản xuất các sản phẩm đầu vào, sản phẩm của công đoạn này chỉ
và sợi, vải do các công ty dệt đảm nhận.
+ Công đoạn thiết kế mẫu sản phẩm.
+ Công đoạn sản xuất do các công ty may đảm nhận.
+ Công đoạn xuất khẩu: do các trung gian thương mại đảm nhận.
+ Cuối cùng là công đoạn maketing và phân phối.
Chuỗi giá trị là quá trình biến một sản phẩm, dịch vụ phát triển từ ý tưởng
qua nghiên cứu thử nghiệm đến sản xuất rồi đến tay người tiêu dùng và cuối
cùng là dịch vụ bán hàng và sau bán hàng. Mỗi một công đoạn trên tùy thuộc
tính chất của mỗi hàng hóa và dịch vụ làm một cách có hệ thống. Các hoạt động
bao gồm hàng loạt các hãng khác nhau đảm trách, tạo thành một mạng lưới sản
xuất, lắp ráp dịch vụ nằm rải rác trên khắp thế giới tạo ra chuỗi giá trị toàn cầu.
Dệt may nằm trong hệ thống chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường và người mua
chi phối (global value chain driven by marketer). Các nhà bán lẻ lớn hay các nhà
bán buôn đặt hàng cung cấp các sản phẩm với các đặc tính rõ ràng. Các công ty
có thương hiệu nổi tiếng kiểm soát hệ thống sản xuất trên phạm vi toàn cầu và
tác động đến lợi nhuận trong mỗi khâu của chuỗi giá trị. Trong chuỗi giá trị đó
khâu tạo ra giá trị lợi nhuận cao nằm trong khâu nghiên cứu và phát triển, thiết
kế, marketing và chiến lược kết nối các nhà sản xuất trên phạm vi toàn cầu và
bán các sản phẩm các thị trường tiêu dùng chính. Trong hệ thống này các doanh
nghiệp ở các nước đang phát triển như Việt Nam đóng vai trò sản xuất sản phẩm
cuối cùng cho người tiêu dùng nước ngoài. Mặc dù đây là khâu được đánh giá
có giá trị gia tăng thấp nhất nhưng nó lại là khâu quan trọng và mang lại nhiều
công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động ở Việt Nam, là một trong những
ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Ngành dệt may có nhiều cơ hội để phát
triển sau khi trở thành thành thành viên chính thức của WTO vào ngày
11.1.2007 và thực hiện lộ trình cam kết của WTO đối với dệt may.
Phạm Thùy Nhung 2 Lớp: Thương mại quốc tế_K46
Đề án môn học
Chương I. Tổng Quan Về Những Cam Kết Của Việt Nam Trong
Lĩnh Vực Dệt May Khi Gia Nhập WTO.
1. Những cam kết và lộ trình thực hiện.
1.1. Mức và lộ trình giảm thuế.
- Về xuất khẩu, Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập
khẩu hiện hành, gồm 10.600 dòng thuế. Mức cắt giảm chung là từ mức bình
quân 17,4% xuống 13,4%, giảm 23%. Nếu không tính các mức thuế trần, thì
thuế bình quân hiện hành sẽ được cắt giảm xuống chỉ còn 11,6%, giảm khoảng
33%, tương đương mức thuế MFN của một số nước trong khu vực. Thời gian
thực hiện là sau 5 - 7 năm. Tính trên cả biểu thuế việc cắt giảm trên diện rộng sẽ
được thực hiện trong vòng 2-3 năm đầu, các năm sau có phạm vi ít hơn và đồng
đều hơn.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng dành mức thuế MFN cho hàng dệt may nhập
khẩu từ tất cả các thành viên WTO khác và thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu
theo đúng cam kết trong WTO. Trước khi gia nhập, Việt Nam chỉ phải dành
mức thuế MFN cho các nước hoặc lãnh thổ mà Việt Nam đã ký Hiệp định song
phương hoặc các thỏa thuận tương tự. Tuy nhiên, kể từ thời điểm gia nhập
WTO, theo nguyên tắc MFN, Việt Nam sẽ phải dành mức thuế MFN cho tất cả
các thành viên WTO khác. Điều này có nghĩa là Việt Nam cũng phải dành
những mức thuế ưu đãi đãi cho một số đối tác theo các thoả thuận đã ký kết như
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) hay thoả thuận dệt may Việt
Nam – EU.
- Về nhập khẩu, thuế nhập khẩu phải thực hiện việc cắt giảm ngay khi Việt
Nam gia nhập WTO. Toàn bộ thuế nhập khẩu trước khi gia nhập (đối với sản
phẩm may mặc là 50%, sản phẩm sợi là 20% và sản phẩm vải là 40%) sẽ phải
giảm xuống mức thấp, khoảng từ 10-15%, là mức chung của các thành viên
WTO. Cụ thể là nhóm hàng xơ, sợi giảm thuế nhập khẩu từ 20% xuống còn 5%,
Phạm Thùy Nhung 3 Lớp: Thương mại quốc tế_K46
Đề án môn học
nhóm hàng vải giảm từ 40% xuống còn 12%; quần áo, đồ may sẵn phải giảm từ
50% xuống 20%.
1.2. Về trợ cấp: Việt Nam cam kết cắt giảm các hình thức trợ cấp vi phạm
quy định của WTO.
Ngành dệt may được hưởng các hình thức trợ cấp: Ưu đãi về tín dụng; Ưu
đãi về đầu tư; Bảo lãnh tín dụng đầu tư; Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động xúc tiến
thương mại.
Trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp theo doanh số
xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương mại thuộc loại trợ cấp
bị cấm và Việt Nam sẽ phải cam kết bỏ hình thức này ngay từ thời điểm gia
nhập. Các hình thức trợ cấp còn lại thuộc dạng trợ cấp đèn vàng, tức là các hình
thức trợ cấp có thể bị khiếu kiện trong WTO.
1.3. Về tham gia các Hiệp dịnh tự do hóa theo ngành: Ta cam kết đầy đủ
cả ba Hiệp định là ITA, dệt may, thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham
gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để
thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3-5 năm.
Trong các Hiệp định trên, việc tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó
khoảng 330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0%
sau 3-5 năm. Như vậy, các sản phẩm điện tử như: máy tính, điện thoại di động;
máy ghi hình, máy-ảnh kỹ thuật số… sẽ đều có thuế suất 0%, thực hiện sau 3-5
năm, tối đa là sau 7 năm. Việc tham gia Hiệp định dệt may ( thực hiện đa
phương hoá mức thuế đã cam kết theo các Hiệp định dệt may với EU, Hoa Kỳ )
cũng dẫn đến giảm thuế đáng kể đối với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống
12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%.
Phạm Thùy Nhung 4 Lớp: Thương mại quốc tế_K46