Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ việt nam sang nhật bản trong
PREMIUM
Số trang
148
Kích thước
754.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1000

phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ việt nam sang nhật bản trong

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

LỜI MỞ ĐẦU

I. Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài tại Việt Nam

Với dân số là 127,46 triệu người và tổng thu nhập quốc nội (GDP) năm 2006

đạt 5,04 tỷ đôla (tốc độ tăng trưởng năm 2006 là 2,1%), Nhật Bản là quốc gia có

nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhật Bản có sức mua lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều

mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản (trong đó có đồ gỗ) đang ngày càng gia tăng cùng

với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay. Nhu cầu tiêu dùng của

Nhật Bản mở ra nhiều triển vọng mới cho các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật

trong đó có Việt Nam. Hiện nay Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn thứ hai của Việt

Nam (sau Hoa Kỳ). Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng hoá trị giá

khoảng 400 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 2,9 tỷ USD.

Lâu nay, các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chỉ có dầu thô, dệt

may, thuỷ sản… thì nay, đồ gỗ cũng được xem như là một mặt hàng xuất khẩu

chính, giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là một trong 6

mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu

ngoạn mục (trung bình 70%/năm).

Hơn thế, trong năm 2005, thị phần đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị

trường Nhật Bản đã tăng từ vị trí thứ tư lên vị trí thứ ba (sau Trung Quốc và Đài

Loan), hiện đang chiếm 8% thị phần nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản và đang có xu

hướng tăng hơn nữa. Với nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ đạt khảng 2,2 tỷ USD/năm của

người Nhật Bản, đồ gỗ là một mặt hàng có triển vọng rất lớn để tăng kim ngạch

xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản năm 2006 và những năm sau nữa.

Tuy nhiên, chúng ta biết rằng trong điều kiện toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời

sống kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đã là

thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cạnh tranh xuất khẩu

nói chung và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng ngày càng mạnh mẽ và

quyết liệt. Những sản phẩm Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang Nhật Bản cũng là

những sản phẩm mà nhiều nước và khu vực khác trên thế giới nhất là các nước

ASEAN và Trung Quốc có điều kiện lợi thế để xuất khẩu sang thị trường này. Đó là

chúng ta còn chưa nói tới những khó khăn xuất phát từ đặc điểm thị trường Nhật

Bản - một thị trường đòi hỏi khắt khe đối với hàng hoá nhập khẩu và có các rào cản

thương mại phức tạp vào bậc nhất trên thế giới. Vì vậy, nghiên cứu và tìm ra giải

Trần Thị Tuyết Nhung 1 Kinh tế quốc tế 45A

2

pháp để xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản là hết sức cần thiết. Không những

đối với việc mở rộng xuất khẩu trong thời gian trước mắt mà còn về lâu dài, góp

phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong chiến lược xuất

nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ từ nay đến năm 2020.

II. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài

Làm rõ đặc điểm và xu hướng nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản, đánh

giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 1999

đến nay, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm

gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới

(WTO).

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị

trường Nhật Bản từ năm 1999 đến nay.

IV. Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp.

V. Kết cấu của đề tài:

Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu bài

viết gồm có ba chương:

- Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết thúc đẩy

xuất khẩu gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia

nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

- Chương 2. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật

Bản từ năm 1999 đến nay.

- Chương 3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản

phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức

Thương mại thế giới (WTO) từ nay đến năm 2020.

Trần Thị Tuyết Nhung 2 Kinh tế quốc tế 45A

3

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT

KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SẢN

PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN

TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC

THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

1.1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu

1.1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu

1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu

Như chúng ta đã biết, cùng với sự phát triển kinh tế của các quốc gia, xuất

phát từ những sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, khí hậu, sự khác biệt về trình độ

phát triển sản xuất và từ nhu cầu phong phú đa dạng của mọi tầng lớp dân cư trên

thế giới…, nhu cầu buôn bán trao đổi hàng hoá cũng ngày càng phát triển cả về bề

rộng và chiều sâu, không những chỉ trao đổi trong nội bộ quốc gia mà còn qua khỏi

biên giới quốc gia, lan rộng ra toàn thế giới.

Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ nước này sang nước

khác.

Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh

tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu

Xuất khẩu là một hoạt động không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Xuất

khẩu có những vai trò sau:

Thứ nhất, xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so

sánh của mình.

Thứ hai, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy

móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghệp công nghiệp

hoá - hiện đại hoá đất nước.

Thứ ba, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy

phát triển sản xuất sản phẩm.

Trần Thị Tuyết Nhung 3 Kinh tế quốc tế 45A

4

Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm

cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân.

Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối

ngoại, tăng cường vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.

1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu

1.1.2.1. Hình thức xuất khẩu trực tiếp

Hình thức xuất khẩu trực tiếp là hình thức, trong đó người bán (người sản

xuất, người cung cấp, người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan hệ

trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về

hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.

1.1.2.2. Hình thức xuất khẩu qua trung gian

Xuất khẩu qua trung gian là hình thức bán hàng được thực hiện nhờ sự giúp

đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định.

Người trung gian phổ biến trong phương thức này là đại lý và môi giới.

1.1.2.3. Hình thức xuất khẩu buôn bán đối lưu

Buôn bán đối lưu hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương thức

trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người

mua, lượng hàng trao đổi với nhau có gía trị tương đương nhau. Mục đích xuất khẩu

ở đây không phải nhằm thu ngoại tệ mà thu về một hàng hoá khác có giá trị tương

đương.

Các loại hình buôn bán đối lưu chủ yếu: Hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua

đối lưu, chuyển nợ, mua bán bình hành, mua lại.

1.1.2.4. Hình thức gia công xuất khẩu

Là một phương thức giao dịch kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt

gia công) giao cho bên kia vật tư, nguyên liệu nhằm nhập về những thành phẩm sau

khi trả cho bên kia một khoản lệ phí (phí gia công).

Các hình thức gia công xuất khẩu:

Căn cứ vào sự chuyển giao quyền sở hữu: Hình thức giao nguyên liệu nhận

thành phẩm, hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm.

Căn cứ vào cách thức thanh toán phí gia công: Hợp đồng thực thanh thực chi,

hợp đồng khoán

Trần Thị Tuyết Nhung 4 Kinh tế quốc tế 45A

5

Căn cứ vào chủ thể tham gia gia công: gia công hai bên, gia công nhiều bên.

1.1.2.5. Hình thức tái xuất khẩu

Là hình thức xuất khẩu những mặt hàng ngoại nhập trước đây mà bản chất

hàng hoá đó không thay đổi nhiều qua quá trình gia công lưu thông nhằm tăng giá

trị của hàng hoá đó

Các hình thức tái xuất khẩu: Tái xuất thông thường, tam nhập tái xuất, tạm

xuất tái nhập.

1.1.2.6. Hình thức xuất khẩu tại chỗ

Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà người bán (người xuất khẩu)

bán hàng hoá hay dịch vụ trong phạm vi biên giới quốc gia của mình.

Hình thức: Bao gồm các hoạt động như: Bán hàng tại hội chợ, triển lãm quốc

tế, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế…

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu

1.1.3.1.Hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước

Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, tình hình biến động kinh tế xã hội, chính

trị khác nhau mà mỗi quốc gia sẽ theo đuổi một chính sách riêng để đạt mục tiêu

chung là phát triển đất nước. Bởi vậy, chính sách quản lỹ của từng quốc gia có ảnh

hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó.

Khi quốc gia thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu thì quốc gia đó sẽ

thực hiện tất cả các biện pháp để có thể thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia. Ngược lại,

khi quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu thì hoạt

động xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều.

Mặt khác, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng cũng ảnh hưởng không

nhỏ đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, các thủ

tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ không rườm rà, phức tạp thì các doanh nghiệp có

thể tận dụng được nhiều cơ hội hơn trong kinh doanh và xuất khẩu. Thêm vào đó,

khi hệ thống luật pháp ổn định rõ ràng tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài,

đồng thời tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, phục vụ cho hoạt động sản xuất

hàng xuất khẩu.

Trần Thị Tuyết Nhung 5 Kinh tế quốc tế 45A

6

1.1.3.2. Các yếu tố đầu vào sản xuất, nguyên liệu, vốn, lao động…

Các yếu tố này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với khả năng xuất khẩu của một

quốc gia. Khi tiềm lực các yếu tố này càng mạnh thì khả năng xuất khẩu hàng hoá

của quốc gia này sang thị trường nước ngoài càng cao, sản phẩm của quốc gia này

càng dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước ngoài và ngược lại. Ví dụ, khi một

quốc gia sản xuất hàng xuất khẩu, nguyên liệu để sản xuất phải nhập khẩu từ nước

khác sẽ dẫn đến tình trạng khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia đó sẽ bị phụ

thuộc vào tình hình biến động nguyên liệu đầu vào của thị trường khác. Khi giá

nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá sản phẩm xuất khẩu tăng, dẫn đến sức cạnh

tranh về giá của sản phẩm đó trên thị trường nước ngoài sẽ giảm, làm hạn chế xuất

khẩu mặt hàng đó.

1.1.3.3. Tỷ giá hối đoái

Khi tỷ giá hối đoái tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu, vì lúc này,

đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ nên cùng một lượng ngoại tệ

có thể có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh

hơn trên thị trường quốc tế. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giame xuống sẽ có tác

động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi

được ít đồng nội tệ hơn nên không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư nhiều cho

hoạt động xuất khẩu.

1.1.3.4. Sức cạnh tranh hàng hoá

Khi sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường nước ngoài lớn, đáp ứng được

những nhu cầu và yêu cầu của người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài thì thì thị

phần của hàng hoá đó sẽ chiếm rất lớn ở nước ngoài, nhiều hơn so với các hàng hoá

cùng loại của nước khác, sẽ thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.

Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá đó càng tăng dẫn đến thị phần của hàng

hoá đó trên thị trường nước ngoài càng lớn sẽ tất yếu dẫn đến xuất khẩu hàng hoá

nhiều hơn sang thị trường này.

Trần Thị Tuyết Nhung 6 Kinh tế quốc tế 45A

7

1.1.3.5. Nhu cầu của thị trường nước ngoài

Cho dù là sản xuất cho tiêu dùng trong nước hay sản xuất để xuất khẩu, nhu

cầu vẫn luôn là yếu tố quyết định đến sản lượng. Khi nhu cầu về một hàng hoá nào

đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài tăng thì các nhà sản xuất sẽ tập

trung mở rộng quy mô sản xuất để có thể sản xuất ra nhiều hàng hoá để đáp ứng

nhu cầu, tất nhiên sẽ khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.

Ngược lại, nếu nhu cầu về hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước

ngoài giảm sẽ không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư để mở rộng quy mô sản

xuất, thậm chí còn thu hẹp quy mô sản xuất, dẫn đến hạn chế xuất khẩu hàng hoá

đó.

1.1.3.6. Yếu tố khác

Ngoài các yếu tố cơ bản tác động tới xuất khẩu như trên, còn có rất nhiều các

yếu tố khác ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu. Sau đây là một số yếu tố

khác:

Một là, trình độ quản lý, nếu nhà quản lý không có trình độ hay trình độ kém

thì không thể nhận ra được tiềm năng của thị trường, từ đó sẽ không thực hiện các

biện pháp để nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường đó.

Hai là, quan hệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu: Quan hệ này nếu

tiến triển tốt đẹp, hợp tác hai bên cùng có lợi thì chắc chắn nước này sẽ giành cho

nước kia những ưu đãi về thuế nhập khẩu, hạn ngạch… thông qua các hiệp định

song phương và đa phương, khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá giữa hai quốc

gia sẽ diễn ra dễ dàng thuận lợi, tạo được sức cạnh tranh của hàng hoá nước này từ

đó thúc đẩy xuất khẩu giữa hai quốc gia. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai quốc gia

không tốt, thì hai bên sẽ không dành cho nhau những ưu đãi, mà còn tạo ra những

hạn chế để nước này không thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước kia, dẫn đến

hạn chế xuất khẩu giữa hai nước. Nếu một trong hai nước có nền kinh tế phát triển

mạnh trên thế giới thì đôi khi còn có thể tạo ra những cấm vận để nước còn lại

không những không thể xuất khẩu sang quốc gia mình mà còn hạn chế cả xuất khẩu

sang quốc gia khác.

Trần Thị Tuyết Nhung 7 Kinh tế quốc tế 45A

8

Ngoài ra, những biến động tình hình kinh tế - xã hội như khủng hoảng, đình

công,… sẽ làm cho nền kinh tế trong nước phải chịu những tổn thất, ảnh hưởng

không nhỏ đến sản xuất trong nước. Do vậy cũng ảnh hưởng gián tiếp đến xuất

khẩu ra nước ngoài. Hơn nữa, lúc này quốc gia đang gặp phải những biến động vì

vậy mọi giải pháp trước mắt đều tập trung nhằm hạn chế ảnh hưởng của những biến

động này tới nền kinh tế, nên hoạt động xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn, rủi ro

hơn.

1.2. Các quy định pháp lý của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đối

với sản phẩm gỗ của Việt Nam

1.2.1. Giới thiệu khái quát về Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các

quy định của WTO

1.2.1.1. Giới thiệu chung về Tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) - WTO được thành

lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc)

ngày 15/4/1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.

WTO là nơi đề ra những quy định để điều tiết hoạt động thương mại giữa các

quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Tính đến nay, WTO

có 150 thành viên. WTO chính là một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến

hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch

vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ..., để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương

mại giữa các bên.

WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế: Ra đời

với kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO tạo ra một

hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính

sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời

sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các "hợp

đồng", theo đó các chính phủ các nước tham gia ký kết, công nhận (thông qua việc

gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại

trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng

thực chất mục tiêu của những thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh

Trần Thị Tuyết Nhung 8 Kinh tế quốc tế 45A

9

nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà xuất nhập khẩu thực

hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình.

Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá

thương mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh...(gọi

chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết

các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các quy

định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật

lệ của WTO chính là “mục tiêu chính trị” của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các

mục tiêu kinh tế và chính trị nêu trên là nhằm tới "mục tiêu xã hội" của WTO là

nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát

triển bền vững, bảo vệ môi trường.

1.2.1.2. Mục tiêu và chức năng của WTO

a) Mục tiêu của WTO: Các mục tiêu của WTO được ghi nhận tại lời mở đầu của

“Hiệp định thành lập WTO” như sau:

"Các bên ký kết Hiệp định này thừa nhận rằng: Tất cả những mối quan hệ

của họ (tức các bên ký kết thành lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế và thương mại

phải được thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và

một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản

xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối

ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì

môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp

với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển

kinh tế khác nhau”.

“(Các bên ký kết Hiệp định) thừa nhận thêm rằng: cần phải có nỗ lực tích cực

để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát

triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng

với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;

(Các bên ký kết Hiệp định) mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này

bằng cách tham gia vào những thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi theo hướng giảm

đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự

phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế;

Trần Thị Tuyết Nhung 9 Kinh tế quốc tế 45A

10

Do đó, (Các bên ký kết Hiệp định), quyết tâm xây dựng một cơ chế thương

mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ

bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên

này”.

b) Chức năng của WTO

Theo ghi nhận tại Ðiều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới,

WTO có 5 chức năng sau:

Một là, WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành

và những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của

WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc

thực hiện các hiệp định nhiều bên;

Hai là, WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành

viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của

WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên

về những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi

các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ

trưởng đưa ra;

Ba là, WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh

việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên;

Bốn là, WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các

nước thành viên);

Năm là, để đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các

chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế

(IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó.

1.2.1.3. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO

Cho dù có đến gần 30.000 trang văn bản, bao gồm rất nhiều văn bản pháp lý

quy định nhiều lĩnh vực kinh tế - thương mại khác nhau như: thương mại hàng hoá,

thương mại dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, viễn thông, các biện pháp kiểm dịch động

- thực vật, sở hữu trí tuệ... song thực chất, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng

và chuyển tải các nguyên tắc cơ bản của WTO, hay nói cách khác, WTO hoạt động

dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:

Trần Thị Tuyết Nhung 10 Kinh tế quốc tế 45A

11

Một, thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc

và nguyên tắc đối xử quốc gia);

Hai, thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán);

Ba, dễ dự đoán (tức có thể dự đoán trước được) nhờ cam kết, ràng buộc, ổn

định và minh bạch;

Bốn, tạo ra (nhằm thúc đẩy) môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng

hơn;

Năm, khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế (bằng cách dành ưu đãi hơn

cho các nước kém phát triển nhất).

1.2.2. Lợi ích và khó khăn đối với doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO

1.2.2.1. Lợi ích của doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO:

Thực tế ở các nước trên thế giới và kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của

Việt Nam những năm qua cho thấy, khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp

được nhiều hơn mất, khả năng tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng thu hút vốn đầu

tư nước ngoài là chắc chắn.

Bởi lẽ, khi gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ được:

Một là, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho

doanh nghiệp

Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới vì

WTO là tổ chức có 150 thành viên chiếm trên 85% tổng thương mại hàng hoá và

khoảng 90% tổng thương mại dịch vụ toàn cầu. Gia nhập WTO, ngoài việc được sự

đối xử bình đẳng trong quan hệ thương mại như tất cả các thành viên khác của

WTO, Việt Nam còn được hưởng những ưu đãi thương mại cho một nước đang

phát triển, ở trình độ thấp. Với những lợi thế do WTO mang lại, Việt Nam sẽ có

điều kiện để tăng cường tiếp cận thị trường của các nước thành viên WTO, mở rộng

thị trường xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có tiềm năng, có lợi thế, và một khi

xuất khẩu tăng trưởng sẽ tạo đầu ra cho sản xuất trong nước, mang lại sự tăng

trưởng cho sản xuất trong nước, tạo thêm nhiều công ăn việc làm.

a. Tăng số lượng thị trường xuất khẩu hàng hoá cho doanh nghiệp:

Nhờ tư cách thành viên của WTO, doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu

vào toàn bộ 149 nước thành viên khác của WTO với mức thuế ưu đãi, thay vì chỉ có

Trần Thị Tuyết Nhung 11 Kinh tế quốc tế 45A

12

một số thị trường truyền thống (Nga, Ðông Âu) và một số thị trường mới khai thác

(Mỹ, Nhật Bản, EU). Nếu nhớ lại rằng, giá trị xuất khẩu của Việt Nam hiện chiếm

1/ 2 giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thì sẽ thấy rõ lợi ích to lớn của việc mở

rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp

Việt Nam. Một khi quy mô sản xuất hàng xuất khẩu phát triển lên đến một mức nào

đó, nếu không giải quyết được bài toán đầu ra, doanh nghiệp khó lòng phát triển,

chứ chưa nói đến phát triển bền vững.

b. Tăng số lượng hàng hoá xuất khẩu ra các nước:

Nhờ thành quả đàm phán cắt giảm thuế quan và loại bỏ dần các hàng rào phi

thuế quan trong lịch sử 50 năm qua của WTO đến nay, doanh nghiệp Việt Nam sẽ

được hưởng lợi từ việc xuất khẩu vào các thị trường các nước thành viên của WTO

với mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp. Nếu không là thành viên WTO, chắc

chắn doanh nghiệp Việt Nam không thể xuất khẩu nhiều hàng hoá sang các nước

đang là thành viên WTO. Bởi lẽ, các nước này trước hết cần thực hiện quy chế đãi

ngộ tối huệ quốc với các nước thành viên WTO; còn trong khi đó họ có thể phân

biệt đối xử với hàng hoá của Việt Nam thể hiện qua việc họ có thể đánh thuế cao

vào hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hoặc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để

ngăn trở hàng hoá của Việt Nam. Do vậy, nếu được hưởng mức thuế suất nhập khẩu

thấp, sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam có mức giá cạnh

tranh được với hàng hoá tương tự của các nước khác. Vì thế, có thể khẳng định,

đồng thời với việc mở rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu,

mức thuế nhập khẩu thấp cũng sẽ giúp doanh nghiệp có cơ hội thúc đẩy sự xâm

nhập hàng hoá của mình vào thị trường các nước thành viên WTO.

Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ những quy định

của WTO về ưu đãi cho các nước đang phát triển để tăng lượng xuất khẩu, chẳng

hạn, các mặt hàng sơ chế khi xuất khẩu sang các nước phát triển sẽ được hưởng

mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp, hoặc không có thuế, hoặc hưởng chế độ

của hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)...Khi tham gia WTO, doanh nghiệp

Việt Nam cũng được hưởng lợi từ quy chế miễn trừ quy định cấm trợ cấp xuất khẩu

đối với các nước đang phát triển có thu nhập dưới 1.000 USD/người/năm.

Trần Thị Tuyết Nhung 12 Kinh tế quốc tế 45A

13

c. Tạo cơ hội sản xuất và xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các ngành mà Việt

Nam có ưu thế cạnh tranh:

Doanh nghiệp Việt Nam được hưởng cơ hội này từ hai bình diện: do những

quy định của WTO và do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại.

Những cơ hội do quy định của WTO đem lại:

Ðối với hàng nông sản: Vốn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước

đang phát triển, nơi mà công nghiệp chế biến chưa phát triển, trình độ chế biến thấp.

Ở những nước này, tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu còn chiếm ở mức cao, do đó,

nếu bị đánh thuế cao, số lượng xuất khẩu sẽ không được nhiều, chắc chắn ảnh

hưởng đến tổng sản lượng xuất khẩu, làm giảm doanh thu xuất khẩu. Nhưng khi vào

WTO, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ được hưởng những thành

quả nhờ những vòng đàm phán đa phương trước đó của WTO về nông nghiệp. Bao

gồm việc tăng cường tiếp cận thị trường (mở rộng hạn ngạch thuế quan và giảm leo

thang thuế quan đối với sản phẩm chế biến), giảm và loại bỏ mọi dạng trợ cấp xuất

khẩu, giảm đáng kể hỗ trợ trong nước. Việt Nam cũng không phải cắt giảm hỗ trợ

trong nước đối với nông dân (các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm 20%

mức hỗ trợ trong nước trong thời gian 6 năm, các nước đang phát triển khác là

13,3% trong vòng 10 năm). Theo Hiệp định nông nghiệp, các hạn chế về số lượng

trong đó có gạo, nông sản khác sẽ được chuyển thành thuế quan và cắt giảm dần.

Do đó, Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng xuất khẩu gạo và các mặt hàng nông sản

khác sang các thị trường mới. Mặt khác, các sản phẩm nông sản xuất khẩu của các

nước không phải là thành viên sẽ phải chịu thuế suất cao do việc thuế quan hoá của

các nước thành viên.

Ðối với hàng dệt may: Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ cơ chế mới của

WTO. Tại Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định về hàng dệt - may được ký kết, thay

thế cho Hiệp định đa sợi. Thực chất của Hiệp định đa sợi là các nước phát triển,

nhất là Mỹ và EU đặt ra cơ chế hạn ngạch nhằm bảo hộ công nghiệp trong nước,

theo đó, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển vào các nước này phải chịu 15

- 30% thuế suất, đặc biệt là phải chịu hạn ngạch xuất khẩu. Hiệp định dệt may đã

quy định rõ chương trình nhất thể hoá các sản phẩm dệt may vào hệ thống thương

mại đa biên. Khi các sản phẩm đã được nhất thể hoá thì không phải chịu sự hạn chế

Trần Thị Tuyết Nhung 13 Kinh tế quốc tế 45A

14

về số lượng nữa. Do đó, khi trở thành thành viên của WTO, hàng dệt may của Việt

Nam sẽ không phải chịu hạn ngạch hoặc được hưởng sự nới lỏng các hạn chế về số

lượng đối với các sản phẩm còn hạn ngạch. Từ 1/1/2005, trong khuôn khổ WTO, đã

bãi bỏ toàn bộ hạn ngạch đối với nhập khẩu hàng dệt may từ các nước thành viên

WTO.

Ðối với những cơ hội do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại: Khi

tham gia vào WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tham gia vào sự phân công lao

động, sản xuất trong một thị trường mang tính toàn cầu. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ

có ưu thế do giá cả rẻ, chi phí thấp (do lương nhân công thấp). Chẳng hạn, doanh

nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều ưu thế về các mặt hàng sử dụng tay nghề truyền

thống, sử dụng lao động rẻ (ví dụ lao động nông nhàn, lao động học vấn thấp nên

lương công nhân thấp), nguyên liệu sẵn có trong nước như hàng mây tre, thủ công

mỹ nghệ, đồ gỗ...; hoặc các mặt hàng tận dụng được ưu đãi của thiên nhiên (mặt

nước, biển, sông, hồ, ao, đầm để nuôi thuỷ hải sản..); khí hậu nhiệt đới cho phép

trồng được những loại cây cà phê, hạt tiêu, cao su, thanh long, dừa...; hoặc các mặt

hàng mang tính truyền thống, là đặc sản của địa phương, vùng miền (phở, mỳ tôm,

nước chấm, gia vị, khô mực, khô cá...). Một số mặt hàng tuy sử dụng nguyên liệu

nhập khẩu như dệt may, da giày...song cũng có thể tận dụng ưu thế chi phí lao động

rẻ, tiền lương thấp. Ðồng thời, đây cũng là những mặt hàng mà đến nay nhiều nước

phát triển không tập trung sản xuất nữa...

Hai là, nâng cao vị thế trong quan hệ thương mại quốc tế và bình đẳng

trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.

a. Tiếp cận bình đẳng vào thị trường các nước thành viên:

Các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các quy định chỉ dành cho thành

viên của WTO, qua đó hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận bình

đẳng vào các thị trường của 149 thành viên khác của WTO mà không bị chèn ép,

đối xử không bình đẳng như khi chưa là thành viên WTO. Ðặc biệt, đối với những

quy định chỉ dành cho thành viên của WTO, hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam

cũng sẽ được đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, một số cường quốc

thương mại vẫn tiếp tục duy trì các biện pháp phân biệt đối xử đối với các nước với

cái gọi là "thương mại nhà nước" hay các nước có nền kinh tế phi thị trường, các

Trần Thị Tuyết Nhung 14 Kinh tế quốc tế 45A

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!