Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phức tạp trong kiến tạo sự đa dạng tín dụng và những thách thức trong rủi ro pot
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Lời nói đầu
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc đảm bảo
tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có nhu cầu vốn
trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy móc, các doanh nghiệp
luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời
khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả lương cho công nhân,
mở rộng sản xuất trong mùa vụ… Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta
chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp phải
khó khăn về vốn ngắn hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu vay
vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao.
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ mở rộng sản
xuất, kích thích tính năng động sáng tạo của chúng, các NHTM đặc biệt là các
ngân hàng trên địa bàn Hà Nội đã có những biện pháp mở rộng hoạt động tín
dụng ngắn hạn nhằm giúp các doanh nghiệp này.
Là một chi nhánh còn khá non trẻ nhưng NHNo&PTNT Láng Hạ đã đạt được
khá nhiều thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho Chi nhánh trước
tình hình hiện nay là tỷ trọng cho vay ngắn hạn tại Chi nhánh rất nhỏ và có xu
hướng giảm. Trong khi đó, địa bàn Hà Nội là nơi đông dân cư và tập trung nhiều
doanh nghiệp quy mô nhỏ với nhu cầu vốn ngắn hạn cao. Do đó, bức xúc hiện
nay của Chi nhánh là làm thế nào để mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn, từng
bước giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, từ đó góp phần phát triển kinh tế,
xã hội.
Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết trên, sau thời gian thực tập tại phòng Tín dụng
NHNo&PTNT Chi nhánh Láng Hạ, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài:
“NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ đi tien phong trong các giải pháp
mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn đối với các đối tượng cho vay khác nhau”.
Theo đó, luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận cấu gồm 3 phần chính:
Chương I: tín dụng ngắn hạn và mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại các
NHTM.
Chương II: thực trạng hoạt động mở rộng đối tượng tín dụng ngắn hạn tại
NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ.
Chương III: giải pháp mở rộng đối tượng động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh
láng hạ.
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Xuân Quế và
các anh chị cán bộ phòng Tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng
Hạ đã tận tình quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và làm
luận văn.
Hà Nội, 6 - 2003
Chương I: Tín dụng ngắn hạn và mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại các
ngân hàng thương mại.
1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại: Cùng với sự phát triển của sản xuất
lưu thông hàng hoá ngân hàng thương mại đã ra đời và trở thành một thứ dầu bôi
trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động một cách nhịp nhàng thông suốt. Ngân hàng
thương mại đã hình thành và tồn tại như một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu
của nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất lưu thông hàng hoá càng phát triển nhu cầu
giao lưu giữa các vùng càng tăng, tuy nhiên do sự khác biệt giữa các vùng về tiền
tệ cũng như sự khác biệt về địa lý làm nhu cầu đổi tiền cũng như gửi tiền và
thanh toán hộ của các thương gia xuất hiện. Và cũng chính nhờ hoạt động nhận
tiền gửi và thanh toán hộ mà những người giữ tiền đã nắm trong tay một khối
lượng tiền lớn từ đó họ dễ dàng thực hiện hoạt động cho vay do tính vô danh của
tiền tệ. Ngân hàng thương mại đã ra đời từ đó cùng với những nghiệp vụ cơ bản
của nó, đến nay trải qua bao thăng trầm của nền kinh tế hoạt động của Ngân hàng
thương mại đã mở rộng không chỉ quy mô, chất lượng mà số lượng, loại hình
các dịch vụ cũng ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Từ đó
Ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế,
hoạt động của Ngân hàng thương mại ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của
nền kinh tế.
Trải qua thời gian tương đối dài với những biến động của nền kinh tế, rất nhiều
khái niệm về Ngân hàng thương mại đã được hình thành. Ta thấy rằng Ngân
hàng thương mại được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác như:
ở Việt Nam theo sắc lệnh 018CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của chính
quyền Sài Gòn cũ cho rằng: Ngân hàng thương mại là mọi xí nghiệp công hay tư
lập, kể cả những chi nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động
thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài
chính với tiền ký thác của tư nhân hay chi nhánh hay chi nhánh công quyền.
Hay một cách tiếp cận Ngân hàng thương mại dựa trên những dịch vụ mà ngân
hàng mang lại như Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính tiền tệ
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là nghiệp vụ
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh tế nào trong nền kinh tế.
Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: Ngân
hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường
xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Như vậy nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng thương mại có
các đặc trưng :
+ Là tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
+ Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các nghiệp vụ tài
chính khác.
Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục đích thu lợi nhuận.
Do sự bùng nổ về thông tin và công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng ngày
càng được hiện đại hoá. Do đó để có thể cạnh tranh và hợp tác, hoạt động ngân
hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà hoà nhập trong
toàn cầu. Điều đó tạo ra một cơ hội mới cho các ngân hàng trong việc phát triển
sản phẩm mở rộng thị trường nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức cho các
ngân hàng trong sự cạnh tranh.
Không những vậy, căn cứ vào tính chất sở hữu và hình thức góp vốn có rất nhiều
loại Ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng
cổ phần, liên doanh, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam… góp phần đa dạng hoá
các loại hình ngân hàng tại Việt Nam. Từ đó thúc đẩy sự tự do cạnh tranh một
cách lành mạnh, giúp các ngân hàng từng bước tự phát triển, đổi mới, mở rộng
hoạt động kinh doanh.
1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh doanh tiền tệ do đó các hoạt động
nghiệp vụ của ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt
được mục tiêu này Ngân hàng thương mại trong quá trình phát triển đã không
ngừng đổi mới, không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ sẵn có mà còn
thường xuyên nghiên cứu nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới phục vụ nhu
cầu của người dân. Tuy nhiên, một Ngân hàng thương mại luôn luôn tiến hành 3
nghiệp vụ cơ bản :
Huy động vốn: Đối với hoạt động huy động vốn, đây là hoạt động “đầu vào” của
ngân hàng, ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động tiền vốn nhàn rỗi tạm thời
trong nền kinh tế.
Thông thường ngân hàng có các loại tiền gửi là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Để thực hiện được hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần có một lượng vốn
nhất định là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn sử
dụng song nó rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Đây là cơ sở thu hút
tiền gửi của khách hàng, là nguồn để trang trải rủi ro khi gặp phải trong kinh
doanh và là chỉ tiêu để Ngân hàng Trung ương quản lý Ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn: Hoạt động sử dụng vốn ở đây bao gồm: hoạt động cho
vay, hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại của
ngân hàng bởi đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng. Chính vì vậy
đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh rủi ro tín dụng xảy ra,
việc quản lý tiền vay được tiến hành một cách rất chặt chẽ, đặc biệt với món vay
lớn, thời hạn cho vay dài. Từ đó ngân hàng phải phân chia tín dụng ra nhiều hình
thức khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của ngân
hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng tính
lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó ngân hàng phải duy trì tài sản này ở
mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh
lời.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị
trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân
hàng.
Hoạt động trung gian: Hoạt động trung gian là việc ngân hàng cung cấp cho
khách hàng một loạt các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách
hàng thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành
séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán,
quản lý hộ tài sản, tư vấn cho doanh nghiệp…
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động ngân hàng chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các ngân hàng tiến tới hoạt động
đa năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Vì vậy các dịch
vụ cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng thêm như: kinh doanh ngoại
hối, bảo lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm
an toàn vật có giá, nghiệp vụ thuê mua,…Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ
chặt chẽ hỗ trợ nhau một mặt thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang
lại lợi nhuận cho ngân hàng.
2. Tín dụng ngân hàng.
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế
tồn tại qua các hình thức xã hội khác nhau. Tín dụng là nghiệp vụ chính cơ bản
nhất của các NHTM chính vì vậy những về tín dụng đã được các nhà kinh tế tìm
hiểu từ rất lâu. Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra những
khái niệm khác nhau về tín dụng.
Theo cách hiểu thông thường, tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể
dựa trên nguyên tắc tin tưởng nhau. Trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài
sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền
hay tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian thoả thuận. Hay nói một cách khác,
tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật
hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả tại một thời điểm
nhất định trong tương lai với một lượng giá trị lớn hơn.
Theo luật NHNN, tín dụng được định nghĩa như sau: “Cấu thành một nghiệp vụ
tín dụng là bất cứ động tác nào qua đó người đưa hay người hứa đưa vốn cho
người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này như đảm bảo, bảo
chứng hay bảo lãnh có thu tiền”.
2.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng: Như vậy, dù cách này hay cách khác, quan
điểm về tín dụng đều thể hiện các nội dung sau:
- Người cho vay sẽ chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định. Lượng giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật như hàng hoá,
máy móc, thiết bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất
định sau khi hết hạn theo thoả thuận phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Như vậy ở đây - tiền không được bỏ ra để thanh toán hay để bán mà là để cho
vay, tiền chỉ được nhượng đi với điều kiện là nó sẽ quay lại điểm xuất phát sau
một thời gian nhất định - đó là đặc trưng thuộc về bản chất của ngành ngân hàng.
Ngoài ra sự hoàn trả không chỉ phải bảo tồn về mặt giá trị mà còn cần có phần
tăng thêm dưới hình thái lợi tức. Lợi tức về tín dụng là thu nhập người cho vay
nhận được từ khoản cho vay, nó là giá cả của hàng hoá cho vay.
2.3. Phân loại tín dụng.
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất và cũng mang lại lợi nhuận
chủ yếu cũng như rủi ro cho các ngân hàng. Chính vì vậy, các nhà ngân hàng
luôn phải tìm ra các tiêu thức phân loại tín dụng để có thể dễ dàng quản lý, kiểm
tra từ đó phòng tránh rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể
phân loại tín dụng như sau:
Căn cứ vào thời gian của khoản vay:
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai loại: tín
dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Đây là hình thức tín dụng thường có thời hạn dưới một năm
và mục đích thường để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho
thanh toán tiền, hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương.
Tín dụng trung, dài hạn:
Tín dụng trung hạn: Đây là hình thức tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm.
Các khoản vay thường với mục đích để đầu tư, cải tiến máy móc, trang thiết bị,
đầu tư vào một ngành kinh doanh mới.Tuy nhiên các máy móc trang thiết bị này
cần có thời hạn khấu hao không quá dài, hay dự án kinh doanh cần có kế hoạch
thu hồi vốn sớm, để có thể kịp thời trả vốn cho ngân hàng.
Tín dụng dài hạn: Đây là các khoản tín dụng được cấp có thời hạn từ 6o tháng trở
lên và cũng thường được sử dụng với mục đích xây nhà xưởng, đầu tư dây
chuyền sản xuất lớn, những dự án có thời hạn thu hồi vốn dài. Tuy nhiên thời
gian cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập
hoặc giấy phép thành lập đơn vị, pháp nhân và không quá 15 năm đỗi với các dự
án đầu tư phục vụ đời sống.
Căn cứ theo hình thức bảo đảm:
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: trong trường hợp này ngân hàng cấp tín
dụng cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo l•nh mà
dựa vào uy tín của khách hàng. Những khách hàng được cấp tín dụng loại này
thường là những khách hàng quen, đã có uy tín với ngân hàng về việc trả đúng và
đầy đủ các khoản nợ của mình từ trước tới nay.
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng dựa
trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo l•nh. Tài sản dùng để thế chấp
cầm cố có thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các
tài sản hình thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ có giá. Ngoài ra, để đảm bảo
cho khoản vay có thể được thực hiện bằng sự bảo l•nh của bên thứ ba được ngân
hàng chấp nhận.
Căn cứ vào mục đích sử dụng: