Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Phụ nữ Sông Bé 45 năm đấu tranh giải phóng (1930-1975)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
SĐC
CAO HÙNG
PHỤ NỮ SÔNG BÉ
1
45 NĂM ĐẤU TRANH GIẢI PHÓN
(1930 - 1975)
NHÀ XUẤT BẲN TỔNG HỢP SÔNG BÉ
PHỤ NỮ SÔNG BÉ
45 NĂM DẤU TRANH GIẢI PHÓNG
( 1 9 3 0 - 1975)
Lsí¿'.K>s/rj y & 'u y u /
ỉ
q o ĩ - ^ í y s 1) ! ' ĩ ' 1
~~ f j i 5 < f D
PHỤ NỮ SÔNG BÉ
45 NĂM ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG
(1930 — 1975)
pTMƯ VIỆN tĨN(TĨ Ị R Ì N H P H U Ö ^ y ị I
JcjTi__i—X
NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP SÔNG BÉ
1991
Chì đạo nội dung:
THƯỜNG TRựC HỘI LIÊN IIIỆP
PHỤ Nữ TỈNH SÔNG BÉ
Người viết:
CAO HÙNG
Sưu tằm tài liệu: Lưu HỒNG THOẠI
NGUYỄN THỊ RÉ
TRẦN THỊ BON
MONG BẠN ĐỌC GÓP Ý KIẾN PH Ê BÌNH
ỉ____ _ _ _ _ _ _ _ _
( V
' - S i s a f c
* ■ * » « * /*
^ A r o
»**«,,
'O/Jr
V« 'v5 $ỊW»T OÍA". u i n n í\ núo ïâ ’fuç ỊA^t» «MA o'«AT
U)jV *im ụ.Aq <\ộiA r.AU sộ\\ -%;ur.T lú « pữ\i 5 Ao 'ụ?. ,^5vbQ
AoU iuạr.a ĩiò\A ÌVI vu AiûT «y ^JiUvuU í«i<I m o Ï ĩ\\ *1 Ao óy ícro’A
<ú,n ỊỊỉUi íiV;A . 1 1 AU iẠĨ\ ụư ạiúm A T .«¿mụ« Aoòo i\ntn\ lìíSVt \ o
vầb «vĩ>n ?.v - ód TịỉiòiA %',í'. ựí\*V' iiôuo ìôiy oòiAo o\ ó'd ’Ậĩ\6<ĩ
Ó’J 'Síúui Aim iV;ỳ‘i \ỉ» vụVíiĩín «Ạ jA’â «'.6An w'a«ôA<\ jôi£*AttDii
.An»\ Î ( W \ îi;.1 m’i! nW onốì oòo OÚO ^nv>y au LỜI NÓI ĐÂU:
As».il« c'œ mill J y-ỵn Y11X \1B Aoj\ ud ÍAÍÌ
^ttôo jliU iob'oiVi. viro ÍVO ìVỉỏ \uọ>\ «a\ jiNn ot>\d> ñfnvjn ò d 'Ặ1\6’Ồ
« Sông Bé — uủrtg đất có chiều dày lịch sử lâu d'V. mang
đậm đặc điểm , sắc thái đ ịa phương và những truỳẽn thống
quý báu. ' . . .■•■■ . ó'«'. ÕV- >« ‘ J Ỹs.íi ui\ \ ttùuo \\Ị1> íiui\/>
Trong còng cuộc khai phá, tạo dựng nên vùng đất thân
thương này từ xa xưa và gòn nửa th ế kỷ qua, phụ nữ-lực lượng
chiếm 50% dân số-đã đoàn kết đấu tranh chống mọi áp bức,
bóc lột, góp phần cùng toàn dãn Sòng Bé giành thắng lợi
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
-, Phát huy truỳên thống anh hùng cùa dân tộc và những
truỳẽn thống quý báu của phụ nữ Việt Nam, được Đảng Cộng
sản Việt Nam và Bác Ưồ dẫn đường chỉ lối, phụ nữ Sông Bé
đã thực hiện được sự kết hợp chặt chẽ giữa sự nghiệp đấu
tranh giải phóng phụ nữ với sự nghiệp đấu tranh giải phóng
đất nước. Trong 15 năm tham gia vận đông cách mạng, đặc
biệt là trong 30 nậm tiến hành chiến tranh nhân dẫn, người
phụ nđ luôn luòn có mặt trêvĩ-mọì mũi nhọn ỏ tiên tuyến cũng
như ở hậu phương. Chiến tranh ác liệt, kéo dài, đày gian nan,
vất vả, có lúc tưởng chừng như sức người khố có thể vượt qua,
người phụ nữ Sông Bé vẫn tỏ rõ sự vững vàng kiên định,
không lùi bước trước gian khổ hy sinh. Trong cuộc chiến đấu
một m ất một còn đó, biết bao bà mẹ, chị em đã nêu những
tấm gương cao đẹp vê chủ nghĩa anh hừng cách mạng và hàng
ngàn người con gái ưu tú của Sống Bé đã ngã xuống trẽn
mảnh đất này. Các th ế hệ phụ nữ trong tỉnh mãi mãi ghi nhớ
công ơn và noi gương các nữ liệt s ĩ đã vì nước bỏ mình.
11
Thực hiện nghị quyết 238 cùa Ban B í thư Trung ương
Đảng, sự chỉ đạo cùa Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam và chỉ thị của Ban thường vụ Tỉnh ủy vè biên soạn lịch
sử đtíu tranh cách mạng, Thường vụ Hội liên hiệp phụ nữ
Sông Bc tổ chức viết cuốn “Phụ nữ Sông Bé — 45 năm đấu
tranh giải phóng" nhòm ghi lại những sự tích anh hùng và
vẻ vang của các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh.
Ghi lại lịch sử xây dựng, chiến đấu của mình, phụ nữ
Sòng Bé muốn được nói lèn lòng biết ơn său sẳc đối với công
lao của Đảng và Bác Hò, của Tỉnh dàng bộ, các lực lượng vũ
trang và nhản dân trong tỉnh.
Nhân dịp cuốn “Phụ nứ Sông Bé — 45 năm đấu tranh
giải ph ỏn g” ra mắt bạn đọc, chúng tòi xin chần thành cám
ơn Ban Thường vụ Tỉnh ùy, Ban tuyên giáo, Ban dán vận, Sà
văn hóa thòng tin, Mặt trận Tổ quốc tỉnh Sông Bé, Ban
nghiên cứu lịch sử Dàng, Ban lịch sử quăn sự Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh, Nhà xuất bản Tổng hợp Sông Bé, các anh Tiẽu
Như Thủy, Huỳnh Lứa, các cán bộ từng lãnh đạo hội qua các
thời kỳ và các mẹ, các chị đã tạo dieu kiện, đóng góp nhiêu
tư liệu cho cuốn sách đại chốt lượng.
Tuy người viết dã cốgáng, nlum g do phạm vi khống gian
rộng, thời gian dài, tư liệu có hạn, cuốn sách khó tránh khỏi
những thiếu sót. Mong các đòng chi và các chị em góp ý kiến
phô binh.
Ngày 20 tháng 7 nảm 1991
T.M BAN THƯỜNG v ụ HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỨ SỔNG BÉ
Hội trưởng
NGUYỄN THỊ HỎNG VÂN
12
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐẶC ĐIỂM, TÍNII CÁCH VÀ TRUYỀN THỐNG CỦA
PHỤ NỬTRÊN ĐỊA BÀN SÔNG BÉ
“Non sô n g gấm vóc V iệt N am do p h ụ n ữ ta trẻ cũng
n h ư g ià , ra sức d ệ t thêu m à th êm tố t đ ẹp , rực rỡ ...”,câu
nói nổi tiếng đó của Bác IĨÔ — lãnh tụ vĩ đại của dân
tộc ta, của Đảng ta đã khẳng định vai trò và vị trí của
phụ nứ Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nưức của dân tộc suốt chiều dài lịch sử. Theo quy luật
phát triển tự nhiên của tạo hóa khi con người được hình
thành, trong phạm vi một cộng đông dân cư — dân tộc
của một quốc gia cũng như của từng vùng, từng địa
phương, bao giờ nứ cũng chiếm tỷ lệ khoảng 50% dân
số toàn cộng đồng. Từ đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy
răng mọi sự nghiệp và thành quả của một cộng đồng,
một dàn tộc trong đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh
xã hội dể iồn tại và phát triển, xây dựng nên non sông
cẩm tú, tạo nẽn cuộc sống no ấm, yên vui, phụ nữ đóng
góp vào đó một nửa công sức, hay nói chính xác là hơn
một nửa công sức vì người phụ nữ còn lo sinh con, nuôi
con, lo gia đinh, tạo nên thế hệ tương lai cho xã hội, đất
13
nước. Di vào cụ thể, sự đóng góp của phụ nđ lớn đến
mức nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện
và đặc điểm xã hội, vấn đê môi trường, các tập tục và
chức năng của phụ nữ trong một chế độ xã hôi nhất
định, truyền thống của dân tộc mà phụ nữ được kế thừa
và nhứng truyền thống riêng của mình.
Với dân tộc ta, trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử,
người phụ nữ Việt Nam các thế hệ đã cùng cha, anh,
chồng, con lao động cần cù và bền bỉ đấu tranh quên
mình vì sự nghiệp dựng nưđc và giứ nưđc. Trong suốt
40 tlìế kỷ đó, bên cạnh nh&ng tấm gương hiển hách của
ông cha, vào nhứng thời điểm bức xúc của lịch sử đã
nổi lên những tấm gương nứ sáng ngời mãi mãi không
thể phai mờ. 1 ■■■:■■': -, '
Niềm vinh dự lớn lao của phụ nứ Việt Nam là vào
năm 40 — 43 sau công nguyên, cuộc khởi nghĩa lớn
nhất và thành công đầu tỉên chống sự đô hộ của nhà
Hán phương Bắc là do Trưng Trắc, Trứng Nhị, lãnh tụ
nghĩa quân lãnh đạo'. l iỉ’ Ujir* '*
^c t N oí ^Ợ ng Hai Bắ, vào năm 248, Bà Triệu Thị Trinh
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở quận Cửu Châu,
đánh đuổi quân đô hộ nhà Ngô. Sử xưa còn chép lại câu
nói nổi tiêng của Bà: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
luồng sóng dứ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi
quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ...” Bà Triệu
Thị Trinh dung là một người phụ nứ có chí lđn.ộ ị jjv
Những bậc nứ kiệt ở nước ta còn có nữ tướng Lê
Chân, cầm đầu 5 đạo quân từ Hải Phòng vào Thăng
Long đuổi giặc và trấn giữ vùng Dông Bắc châu thổ sông
Hồng (thời Hai Bà Trưng). Thời Quang Trung Nguyễn
14
Huệ thế kỷ thứ 18 có dô đô'c Bùi Thị Xuân — một nữ
tướng xuất sắc và can đảm phi thường của đội quân Tây
Sơn. Chỉ đơn cử: một thời gian sau khi Nguyễn Huệ mất
bà bị Nguyễn Ánh bắt hành hình, đối mặt vđi cái chết,
bà “Bùi Thị Xuân mặt không đổi sắc, tiến tới trước đầu
voi như chọc tức nó. Mấy tên lính thét bảo bà qùy
xuống, nhưng bà vẫn xăm xãm bước tới. Voi lùi lại. Bọn
lính phải cầm giáo đâm vào dùi voi, bấy giờ voi mới đưa
vòi quấn bà tung lên và dùng ngà đâm xuyên qua người
bà. Bà chết rồi, bọn lính cầm dao mổ ngực lấy tim, gan,
cắt thịt ở cánh tay bà để ăn sống, vì chúng muốn được
can đảm như bà”1 Kế thừa truyền thống dũng cảm, bất
khuất của nứ tướng Bùi Thị Xuân, dưới thời Mỹ-ngụy,
đối mặt với kẻ thù tàn bạo, trước cái sống và cái chết,
người phụ nữ Sông Bé cũng như người phụ nử miền
Nam Việt Nam cũng đã nêu bao tấm gương khí tiết,
dũng liệt mà hồi sau chúng ta sẽ nói đến.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thừi đại nào cũng
có những phụ nứ tài ba vang d*nh sự nghiệp như bà
Dương Vân Nga cuối triều Đinh, bà Nguyên Phi Y Lan
đời Lý... Vê phương diện thơ văn nổi tiếng trong nước
có các nử sĩ Hô Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện
Thanh Quan (Nguvễn Thị Hĩnh) Lê Ngọc Hân, v.v. mà
những áng văn thơ bất hủ qủa các bà vê hình thức vãn
chương cũng như về tính nhân vãn mãi mãi dến nay
vẫn còn truỳên tụng.
Trên đây là nhửng tấm gương đã trờ thành truyền
thống của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử. Từ đó, một
vấn đẻ mang tính khoa h ọ c \à biện chứng được đặt ra:
1 Theo hôi ký của giáo si P háp La Bíc-xa-se-rơ (La Bissachère) người
được chứng kiến hành hình nử tưđng Bùi Thị X uân cua Nguyền Ánh.
15
Nếu không phải trên cái nặntcủa một dân tộc càn cù
lao động, hiếu học, lấy chứ nhân, chứ tâm, chứ trí làm
đầu, một dân tộc kiên cường, bất khuất chống ngoại
xâm, nếu không phải trên cái nền của tập thể giđi nứ
Việt Nam qua các thế hệ, thông minh, chịu thương, chịu
khó, đảm đang, trung hậu và kiên cường giđ nưđc làm
sao có thế xuất hiện những bậc nứ anh hùng, nứ kiệt
ịrcmg lịchỊUÍ! .¿¡’j mfib oBig iliq fini!
Điều đó nói lên truyền thống của phụ nứ Việt Nam
tuy có đặc điểm và sắc thái về giđi tính của mình, nhưng
bao giờ cúng kế thừa truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Dân tộc Việt Nam anh hùng sẽ sản sinh ra những
người phụ nứ Việt Nam anh hùng. Ị , . . V r
Phụ nữ Sông Bé cũng như phụ nữ Nam Bộ và cả nước
đả kế thừa, gìn giứ và phát huy những truỳên thống
quý báu đó trong suốt cuộfc đấu tranh lâu dài giành
quyền sống, quyền làm người, góp phần quan trọng của
mình trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam thân yêu. rínẹb §rmv ÍỊỚ iãt Ixn ỤÍÍCỊ íiíi bo
íuvl y hí‘í nâ'£ưg/í ổđ ,ri:iiCI uấhứ iõuo íiỊịX nr,v ỵnưuCỈ
oòlin gno-ií gfî'éit iồn nỗv Ofî-J nộib gnWjrjq ôV ...'¿J Ibb
riỳsuì ỉ BÍI , mai tỉ ỊrỉT náoCi ^rn.ưH nóuX nỉ ỉ Î8 ĩta 0L0 ò ì
Ém .v.v ,<iAlĩ ‘)ọq> 1 ÔJ (rfff;iH f ‘iT (iồv:r;ỹA) (ir-.up díi/òíỉT
nồv olííỉ t flm'iï ôv f;d ■>■«*> sup uri iồđ prit iĩõ.' ỵnì; p.iVđa
vnn nầb Iran iĩiíí! rur/.nürln finit ấv iidn gnĩ/o gaPPrỉo
rj ■■ Sông Bé là tỉnh lđn nhất về diện tích tự nhiên ở miên
Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, chiếm gần
3% diện tích cả nước, nhưng lại là tỉnh có dân số thấp
và mật độ dân thưa, chỉ chiếm 1,3% số dân cả nước. Sau
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tỉnh Sông Bé
được thành lập trên cơ sở sát nhập tỉnh Thủ Dầu Một
♦
16
và tỉnh Bình Phước (Bình Long, Phước Long) gồm 8
huyện là Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát, Bình Long,
Đồng Phú, Lộc Ninh, Phước Long, Bù Đăng và thị xã
Thủ Dầu Một. Thị xã Thủ Dầu Một trở thành tỉnh ly
và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh.
Đến năm 1989, dân số Sông Bé có 1.001.662 người.
Trong đó người Kinh có 937.646, người Xtiêng 49.179,
người Khơ-me 9.425, người Mơ Nông 5.642, người Mạ
11 người, Châu Ro 3, người Hoa 17.456 (chủ yếu ở thị
xã Thủ Dầu Một và hai huyện Thuận An, Bến Cát). Mật
độ dân số trung bình toàn tỉnh- là 98 người/ki-iô-mét
vuông.
Về mặt địa lý, Sông ĩ?e là một vùng đàTtổng hợp đặc
tính của cao nguyên, trung du và đồng bằng. Phía bắc
là vùng đôi và rừng già. Giứa tỉnh là vùng gò đôi của
miền trung du, vùng đất lý tưởng của cao su, cà phê, hồ
tiêu, điều... Phía nam tiếp giáp với ngoại ô thành phố
Hô Chí Minh, là vùng có cảnh quan của đồng bằng
Nam Bộ.
Từ đầu thế kỷ 20, ở vùng đất phía nam này, nông
dân người Kinh đã mở mang.việc trồng lúa nước và vườn
cây, đặc biệt măng cụt được trồng sđm và nhiêu nhất
so với các miệt vườn khác ở Nam Bộ.
Sự tồn tại và phân bố tự nhiên của ba vùng địa lý
trên đất Sông Bé đã tạo cho địa bàn này nhứng nét đa
dạng và phong phú về tài nguyên. Đồng thời đó cũng
là đặc trưng cơ bản tác động sâu sắc đến đời sống, sự
phát triển kinh tế — xã hội, sự hình thành các tầng
lứp lao động — nghề nghiệp của nhân dân Sông Bé nói
chung và phụ nứ S ỷn g^ é npậ riêng.
b ì n h p h ư ớ c I
17
Từ xa xưa, tỉnh Sông Bé ngày nay là một vùng đất
hoang vu, rậm rạp. ơ đó chỉ có rừng già nhiệt đới cùng
với thú đu và là địa bàn cư trú của những tộc người
Anh-đô-nê diên cổ đại, nói tiếng Môn — Khơme, tổ tiên
của người Xtiêng, Mạ, Mơ Nông và nhiều dân tộc ít
người khác. Trải qua nhiều thế kỷ, các nhóm dân tộc
gồm Xtiêng, Mơ Nông, Châu Ro, Châu Mạ... dần dần
được hình thành, quy tụ khai phá đất hoang để sinh
sống ở các vùng rừng phía bắc tỉnh. Nửa đầu thế kỷ 17,
những lđp cư dân người Kinh vào khai hoang lập ấp ở
lưu vực sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Ngược dòng
sông, họ đi tìm những vùng đất-bồi màu mđ và khai
phá, mở rộng dần, chủ yếu trên địa bàn Lái Thiêu, Tàn
Uyên và nam Bến Cát ngày nay. Đó là những người
Kinh ở các tỉnh phía Bắc thuộc tầng lớp nông dân nghèo
khổ “không có mảnh đất cắm dùi”, không sống nổi dươi
chế độ địa chủ, phong kiến hà khắc, những ngư dân,
những thợ thu công với nhiều nghề truyền thống nổi
tiếng phải mang gia đình vào đây tìm đường sinh sông.
Cuối thê’ kỷ 18, đầu thế kỷ 19, những lớp cư dân mới
— thông qua những binh lính lưu đồn nhà Nguyễn và
gia đình họ — đến vùng đất này. Hầu hết là dân vùng
“Lương Quảng” (Quảng Nam, Quảng Ngãi) vào đến
Bình Thuận. Ngoài ra còn những người trốn tránh quân
dịch, từ dân bị lưu dày, binh lính đào, giải ngũ cũng
lần lượt vào đây. Đặc biệt, khi nhà Tây Sơn sụp đổ, một
bộ phận lớn quản Tây Sơn cùng gia đình, họ hàng ở
miền tây Bình Định tránh họa Gia Long trả thù kéo vào
hòa cùng cộng dỏng làm ăn sinh sống. Làng Tân Khánh
ngày nay có thể coi như điểm quần tụ của một dợt di
cư điển hình mang dậm màu sắc chính trị. Những người
18
dân Bình Định cát cứ một vùng rừng hiểm trở và sống
ngoài vòng pháp luật của nhà Nguyễn. Bấy giờ không
phải là “Ai vẽ Bình Định mà coi, con gái Bình Định
múa roi đi quyền ” mà là “Ai về Tân Khánh mà coi, con
gái Binh Định múa roi đi quyen” . Từ đó, phái võ Tây
Sơn, một phái võ do Nguyễn Huệ sáng lập, nổi tiếng ở
nước ta được truyền bá ngày càng rộng rãi trong nam
nứ cư dân.
Cộng đồng dân cư trộn địa bàn Sông Bé từng bước
được hình thành. Để mưu cầu cuộc sống và theo quy
luật phát triển tự nhiên của xã hội, người Kinh từ phía
Nam lên khai hoang, cư trú ở phía bắc ngày càng nhiều.
Sự giao lưu giứa cư dân người Kinh với các nhóm dân
tộc bản địa trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội được
đẩy mạnh. Trong lịch sử không có sự xung đột nào diễn
ra giứạ người Kinh và người dân tộc. Diều dó có thể giải
thích được: tất cả đêu là những người cùng khổ, bị áp
bức bóc lột nặng nề; họ là những người có chung cảnh
ngộ, có sự đồng cảm của tầng lớp bị trị.
Một đợt cư dân lớn tiếp theo là khi thực dân Pháp
xâm chiếm nước ta, chúng mở các dồn điền cao su trên
vùng đất đỏ này. Nhứr g người dân các tỉnh miềm Bắc,
chủ yếu là Nam Định, Thái Bình nghe theo “lời đường
mật” của chúng đã ký giao kèo (contrat) dài hạn với tư
bản dồn điền Pháp vào làm phu cho các dôn điền cao
su. Những làng xóm người Kinh trở nên đông đúc ở
những vùng trước đó còn hoang vắng. Mặt khác, dưới
thời cai trị của thực dân Pháp chúng đã chụp lên đâu
người dân một chế độ sưu thuế cao gấp 10 lần so với đời
vua Tự Đức là đời vua có sưu thuế nặng hê nhất trong
các triều đại phong kiến nhà Nguyễn, vì vậy, nông dân
19
nghèo ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ đã dồn về vùng rừng
núi Sông Bé để kiếm sống và lập nghiệp.
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ-ngụy coi việc bố trí dân
cư ỉà vấn đề chiến lược, nhằm tạo một cơ sở chính trị
hạ tầng và làm hành lang bao vâỵ các căn cứ địa kháng
chiến trên địa bàn Sông Bé. Chüíig dùng thần quyền,
giáo lý mê hoặc đồng bào theo đạo thiên chúa ở miền
Bắc rời bỏ quê hương ào ạt kéo vào định cư ở những
vùng xung yếu theo kế hoạch quân sự của chúng.
Khác với nhiều nơi, nét độc đáo về dân cư ờ Sông Bé
là sự quy tụ cư dân từ bốn phương trong cả nước cùng
với các nhóm dân tộc ít người bản địa mà hình thành
cộng đồng. Ngày nay đi đến bất cứ vùng nào trong tỉnh,
chúng ta cũng gặp và nghe được âm sắc của giọng nói
đủ các loại vùng trong nước. Người ở các tỉnh Bắc Bộ,
Trung Bộ, miền Đông, miền Tây Nam Bộ, người Tây
Nguyên, cả người Hoa đều CQ mặt, trong đó nữ chiếm
khoảng một nửa. Có thế nói đây là hình ảnh thu nhỏ
những tính chất, sắc thái của đại gia đình các dân tộc,
các vùng của Tố quốc Việt Nam. Tuy chia thành nhiêu
dợt, từ nhiều vùng trong cả nước quy tụ lại, nhưng
nhứng cư dân trên địa bàn Sông Bé — kế cả các dân
tộc ban địa — đêu có chung mẫu số: Họ là nhứng người
cùng khổ, thời nào cũng bị.vua quan, thực dân đế quốc
đè nén, áp bức năng nề. Dó là yếu tố quyết định hình
thành xã hội Sông Bé, cũng là cái cốt lõi của người dân
Sông Bé nói chung và phụ nữ Sông Bé nói riêng trong
sự vươn lèn đấu tranh cách mạng và tiến hành chiến
tranh nhân dân để tự giải phồng và góp phần giải nhõng
20