Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Pháp luật đại cương 2
PREMIUM
Số trang
213
Kích thước
874.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1507

Pháp luật đại cương 2

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

CHƯƠNG 1

NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ ĐỊA VỊ

PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

1.1 Bản chất nhà nước, kiểu và hình thức nhà nước

1.1.1. Nguồn gốc, bản chất của Nhà nước

1.1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước

a. Tổ chức xã hội và quyền lực trong xã hội Cộng sản nguyên thủy.

Xã hội loài người đã trải qua một thời kỳ không có nhà nước và pháp luật,

đó là thời kỳ Cộng sản nguyên thủy. Trong thời kỳ này, do trình độ phát triển hết

sức thấp kém của lực lượng sản xuất nên con người cùng sống chung, cùng lao

động và cùng hưởng thụ những thành quả do lao động chung mang lại. Mọi người

đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, xã hội không phân biệt kẻ giàu người

nghèo, không có sự phân chia giai cấp.

Cơ sở kinh tế của xã hội Cộng sản nguyên thủy tạo ra hình thức tổ chức xã

hội là Thị tộc - tổ chức cơ sở đầu tiên của xã hội loài người. Thị tộc là một tổ chức

lao động sản xuất, một bộ máy kinh tế xã hội. Sự phát triển của xã hội cộng với các

yếu tố tác động khác đòi hỏi Thị tộc phải mở rộng quan hệ với các Thị tộc khác,

dẫn đến sự xuất hiện các Bào tộc và Bộ lạc do nhiều Bào tộc hợp thành.

Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà

gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội. Để tổ chức và quản lý thị tộc, xã hội đã

hình thành hình thức Hội đồng thị tộc bao gồm tất cả những người lớn tuổi trong

Thị tộc với quyền hạn rất lớn. Tổ chức quản lý Bào tộc là Hội đồng Bào tộc bao

gồm các tù trưởng, thủ lĩnh quân sự của các Thị tộc, với các nguyên tắc tổ chức

quyền lực tương tự như nguyên tắc tổ chức quyền lực của Thị tộc nhưng có sự tập

trung cao hơn. Hội đồng Bộ lạc là hình thức tổ chức quản lý của Bộ lạc với nguyên

1

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

tắc tổ chức tương tự như Thị tộc và Bào tộc nhưng mức độ tập trung quyền lực cao

hơn nữa. Như vậy, trong xã hội Cộng sản nguyên thủy đã xuất phát từ xã hội và

phục vụ cho lợi ích của toàn xã hội. Những người đứng đầu Thị tộc, Bào tộc, Bộ

lạc không có đặc quyền, đặc lợi nào; họ cùng sống, cùng lao động và hưởng thụ

như mọi thành viên khác và chịu sự kiểm tra của công cộng.

b. Phân chia giai cấp và sự xuất hiện nhà nước

Sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội đã làm

thay đổi cơ cấu tổ chức xã hội của xã hội Cộng sản nguyên thủy. Sau ba lần phân

công lao động xã hội, chế độ tư hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu,

người nghèo, hình thành hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Một xã hội mới với

sự phân chia giai cấp và sự đấu tranh giai cấp đòi hỏi phải có một tổ chức quyền

lực mới, ngõ hầu có thể dập tắt được các cuộc xung đột giai cấp, tổ chức quyền lực

đó là nhà nước. Như vậy, nhà nước xuất hiện một cách khách quan, “ một lực

lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ

làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vòng trật tự”.

1.1.1.2. Bản chất của nhà nước

Bản chất của nhà nước là những yếu tố tất nhiên bên trong của nhà nước, nó

quy định sự vận động và phát triển của nhà nước. Bản chất của nhà nước biểu hiện

ở hai tính chất cơ bản của nó là tính giai cấp và tính xã hội.

Làm rõ bản chất của nhà nước tức là phải xác định: Nhà nước là của ai? Do

giai cấp nào tổ chức nên và lãnh đạo? phục vụ lợi ích của giai cấp nào?

* Tính giai cấp của nhà nước

Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng nhà nước chỉ xuất hiện

và tồn tại trong xã hội có giai cấp và luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc. Nhà

nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà

được. Nhà nước trước hết là bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai

cấp khác, là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị giai cấp.

2

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

- Nhà nước do giai cấp thống trị tổ chức ra để làm nhiệm vụ quản lí và bảo

vệ giai cấp thống trị về mọi mặt.

- Trong xã hội có giai cấp sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác

thể hiện ở ba loại quyền lực: Quyền lực về kinh tế, quyền lực chính trị và quyền

lực về tư tưởng ( Quyền lực được hiểu là khả năng sức mạnh của người nào đó bắt

người khác phải phục vụ mình, phục tùng mình). Giai cấp thống trị về kinh tế trở

thành giai cấp thống trị về chính trị, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một

cách tập trung và biến thành ý chí nhà nước, bắt buộc mọi thành viên trong xã hội

phải tuân theo phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.

- Để thực hiện sự thống trị của mình giai cấp thống trị phải tổ chức và sử

dụng nhà nước, củng cố duy trì quyền lực về chính trị kinh tế và tư tưởng đối với

toàn bộ xã hội. Nhà nước sử dụng các cơ quan cưỡng chế như quân đội, cảnh sát,

toà án, nhà tù để trấn áp các lực lượng đối địch, bắt các giai cấp, tầng lớp khác

phục tùng ý chí của mình.

Trong các xã hội bóc lột, nhà nước có thuộc tính chung là bộ máy đặc biệt

duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng của thiểu số đối với đa số là nhân

dân lao động, thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột. Nhà nước xã hội

chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, là công cụ thực hiện nền chuyên chính và bảo vệ

lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là

bộ máy thống trị của đa số với thiểu số.

* Tính xã hội của nhà nước

Nhà nước ra đời và tồn tại trong xã hội với cơ cấu bao gồm giai cấp thống trị

và các tầng lớp giai cấp khác. Bản thân giai cấp thống trị cũng chỉ tồn tại trong mối

quan hệ với các giai cấp, các tầng lớp dân cư khác. Do vậy nhà nước ngoài tính

cách là công cụ duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị, còn phải là

một tổ chức quyền lực công, là phương thức đảm bảo lợi ích chung của toàn xã

hội. Nhà nước không chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà còn đứng ra giải

quyết những vấn đề nảy sinh từ trong đời sống xã hội. Mức độ biểu hiện và thực

3

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

hiện vai trò xã hội không giống nhau ở những kiểu nhà nước khác nhau. Trong các

kiểu nhà nước bóc lột như nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản

thì tính xã hội tính giai cấp thể hiện rõ nét, do vậy tính xã hội hay mục đích xã hội

của nhà nước lại mờ nhạt đi. Trong kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa thì tính xã hội

lại được thể hiện rất rõ ràng vì mục đích của nhà nước là phục vụ lợi ích chung của

toàn xã hội.

Từ những kết luận trên có thể đi đến định nghĩa sau: Nhà nước là một tổ

chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế

và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện

mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.

* Đặc trưng của nhà nước.

Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng, nhưng tất cả các nhà nước đều có

những đặc trưng chung, làm cho nhà nước khác với tổ chức thị tộc trong xã hội

Cộng sản nguyên thuỷ. Những đặc trưng cơ bản đó là:

- Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt, không còn hoà nhập hoàn

toàn với cư dân nữa. Quyền lực công cộng đặc biệt ở đây là quyền lực nhà nước

mà chủ thể của nó là giai cấp thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng trong xã hội.

Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một người đặc biệt

chuyên làm nhiệm vụ quản lý, họ tham gia vào các cơ quan nhà nước và hình

thành nên một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, bắt các

giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.

- Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính,

không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính... Việc

phân chia này quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên quy mô rộng lớn

nhất và dẫn đến việc hình thành các cơ quan trung ương và địa phương của bộ máy

nhà nước.

- Nhà nước có chủ quyền quốc gia: Chủ quyền quốc gia mang nội dung

chính trị pháp lý, nó thể hiện quyền độc lập tự quyết của nhà nước về những chính

4

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền

quốc gia là thuộc tính không thể chia cắt của nhà nước.

- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lí bắt buộc đối với mọi

công dân. Với tư cách là người đại diện chính thức của toàn xã hội, nhà nước là tổ

chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật. Pháp luật do nhà nước ban hành nên

có tính bắt buộc chung, mọi người đều phải tôn trọng pháp luật.

- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới các hình thức

bắt buộc, số lượng và thời hạn ấn định trước. Sở dĩ nhà nước phải đặt ra các loại

thuế vì bộ máy của nhà nước là một lớp người đặc biệt, tách ra khỏi lao động sản

xuất để thực hiện chức năng quản lý, bộ máy đó phải được nuôi dưỡng bằng nguồn

tài chính lấy từ khu vực sản xuất trực tiếp. Thiếu thuế nhà nước không thể tồn tại

được. Nhưng mặt khác, chỉ có nhà nước mới có độc quyền đặt ra thuế và thu thuế.

* Chức năng của nhà nước

Chức năng của nhà nước là những phương diện, những hoạt động chủ yếu

của nhà nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Chức

năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở

kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định.

Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng được chia thành

chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:

- Chức năng đối nội: là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong

nội bộ đất nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối

chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế... là những chức năng đối nội của nhà nước.

- Chức năng đối ngoại: thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các

nhà nước và dân tộc khác. Ví dụ: Phòng thủ đất nước, chống xâm lược từ bên

ngoài, thiết lập mối bang giao với các quốc gia khác...

- Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc

xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn luôn xuất phát từ tình hình

5

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện chức năng

đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội.

Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều

hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau trong đó có ba hoạt động chính là:

Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tuỳ thuộc

vào tình hình của mỗi nước, các phương pháp hoạt động để thực hiện các chức

năng của nhà nước cũng rất đa dạng nhưng nhìn chung thì có hai phương pháp

chính là thuyết phục và cưỡng chế. Trong các nhà nước bóc lột thì phương pháp

cưỡng chế được sử dụng rộng rãi và là phương pháp chủ yếu để thực hiện các chức

năng của nhà nước. Còn trong nhà nước xã hội chủ nghĩa thuyết phục là phương

pháp cơ bản còn cưỡng chế được sử dụng kết hợp và dựa trên cơ sở của thuyết

phục và giáo dục.

1.1.2. Các kiểu và hình thức Nhà nước

1.1.2.1. Khái niệm kiểu nhà nước

Lịch sử xã hội loài người cho đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội

trong đó có 4 hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp và tương ứng có 4 kiểu nhà

nước: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội

chủ nghĩa.

Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm cơ bản của nhà nước thể hiện bản

chất giai cấp, vai trò xã hội, những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển của nhà

nước trong một hình thái kinh tế xã hội có giai cấp nhất định.

Các kiểu nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản đều có đặc

điểm chung là nhà nước bóc lột, chúng xuất hiện và tồn tại trên cơ sở của chế độ tư

hữu về tư liệu sản xuất, là công cụ duy trì và bảo vệ nền thống trị và lợi ích của các

giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản. Còn nhà nước xã hội chủ

nghĩa là kiểu nhà nước mới dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, là nhà

nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

6

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

Sự thay thế kiểu nhà nước diễn ra thông qua cách mạng xã hội mà kết quả là

kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu nhà nước trước.

1.1.2.2. Các kiểu nhà nước trong lịch sử

a) Các kiểu nhà nước bóc lột: nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản.

* Nhà nước chủ nô.

Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ra đời khi chế độ thị tộc

tan rã. Cơ sở kinh tế cả nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư

liệu sản xuất, sản phẩm lao động và người nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ có

hai giai cấp chính là nô lệ và chủ nô, ngoài ra còn có các tầng lớp thợ thủ công và

những người lao động tự do khác. Chủ nô là một bộ phận thiểu số của xã hội

nhưng nắm giữ trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội, còn nô lệ là lực lượng

chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nhưng chỉ là “công cụ biết nói” trong tay chủ

nô, phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô. Tầng lớp thợ thủ công và những người lao

động tự do có địa vị khác với người nô lệ nhưng vẫn trong quỹ đạo chi phối của

chủ nô về chính trị, kinh tế, tư tưởng.

Nhà nước chủ nô xét về bản chất chỉ là công cụ bạo lực để thực hiện nền

chuyên chính của giai cấp chủ nô, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô,

đàn áp nô lệ và những người lao động khác.

Nhà nước chủ nô thực hiện bảo vệ củng cố chế độ sở hữu của chủ nô đối với

tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động và người nô lệ đàn áp sự phản kháng của nô lệ

và các tầng lớp khác bằng bạo lực, củng cố hệ tư tưởng tôn giáo và sử dụng nó để

thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội. Trong một chừng mực nhất định nhà nước

chủ nô cũng tổ chức một số hoạt động kinh tế như quản lý đất đai, tổ chức khai

hoang xây dựng và quản lý các công trình thuỷ nông.... Nhà nước chủ nô tiến hành

chiến tranh xâm lược, bằng chiến tranh giai cấp chủ nô thực hiện khát vọng làm

giàu, cướp bóc của cải, bắt tù binh bổ sung vào đội quân nô lệ và mở rộng phạm vi

thống trị.

7

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

Bộ máy nhà nước chủ nô ở giai đoạn đầu còn đơn giản, mang nhiều dấu ấn

của tổ chức thị tộc, chủ nô là người lãnh đạo và là nhà chức trách. Về sau bộ máy

phát triển hơn trong đó cảnh sát, quân đội, toà án là những bộ phận chủ yếu cấu

thành bộ máy nhà nước.

Hình thức chính thể: chủ yếu theo chính thể quân chủ, quân chủ chuyên chế,

một số nước có hình thức chính thể cộng hoà.

* Kiểu nhà nước phong kiến.

Vào giai đoạn cuối của chế độ chiếm hữu nô lệ, quan hệ sản xuất dựa trên

chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, cộng với sự bóc lột sức

lao động của nô lệ đã trở nên kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu

thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ ngày càng trở nên gay gắt, dẫn đến nhiều cuộc

nổi dậy của nô lệ: lao động của nông dân trên ruộng đất của các chúa đất đưa năng

suất lao động cao hơn lao động của nô lệ và dần dần thay thế lao động của nô lệ;

chế độ phong kiến dần dần thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ; nhà nước phong kiến

thay thế nhà nước chủ nô. Nhìn chung các nhà nước phong kiến ở Châu Âu và một

số nhà nước Châu Á ra đời dựa trên sự tan rã của nhà nước chủ nô. Tuy nhiên cũng

có quốc gia trong đó nhà nước phong kiến là đầu tiên như Triều Tiên, Mông Cổ,

Việt Nam và dân tộc Giéc- manh ở Châu Âu.

Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ

phong kiến đối với tư liệu sản xuất mà chủ yếu là ruộng đất, người nông dân không

có hoặc có rất ít ruộng đất nên phải phụ thuộc vào địa chủ phong kiến. Xã hội

phong kiến có kết cấu giai cấp phức tạp, địa chủ và nông dân là hai giai cấp chính,

ngoài ra trong xã hội còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân... Giai cấp địa chủ

phong kiến được chia ra nhiều đẳng cấp với những đặc quyền khác nhau về sở hữu

ruộng đất, vua hay quốc vương là người có thứ bậc cao nhất trong thứ bậc, đẳng

cấp của xã hội phong kiến. Các đẳng cấp phong kiến ở Châu Âu như công, hầu, bá,

tử, nam... đều gắn liền với những mức độ khác nhau về số lượng điền trang, thái ấp

mà họ chiếm hữu.

8

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

Địa vị người nông dân trong xã hội phong kiến có những ưu thế hơn so với

địa vị người nô lệ nhưng chưa có sự khác biệt rõ rệt. Nông dân có kinh tế cá thể,

được sở hữu đối với nhà cửa, công cụ lao động, ruộng đất ( thường với số lượng

ít). Địa chủ phong kiến không có quyền định đoạt tính mạng người nông dân như

trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Người nông dân bị bóc lột dưới hình thức nộp tô

bằng hiện vật (thóc gạo, vật nuôi...) hoặc bằng tiền, ngoài ra còn bị cưỡng bức lao

dịch cho phong kiến. Mức độ phụ thuộc của người nông dân vào địa chủ phong

kiến có khác nhau ở các nước và trong giai đoạn cụ thể của nhà nước phong kiến.

Về bản chất, nhà nước phong kiến là công cụ trong tay giai cấp địa chủ

phong kiến để thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nông dân, thợ thủ công và

các tầng lớp lao động khác, là phương tiện duy trì địa vị kinh tế, bảo vệ lợi ích và

sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến bảo vệ chế độ

sở hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, duy trì các hình thức bóc lột với nông

dân và các tầng lớp lao động khác, đàn áp tư tưởng, tuyên truyền hệ tư tưởng

phong kiến, nô dịch các tầng lớp lao động bằng hệ thống tổ chức tôn giáo. Nhà

nước phong kiến có thực hiện những hoạt động kinh tế nhưng với mức độ hạn chế.

Về đối ngoại, nhà nước phong kiến tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng đất đai

– lãnh thổ, cướp bóc của cải và phòng thủ chống bành chướng, xâm lược.

Bộ máy nhà nước phong kiến mang nặng tính quân sự, tập trung quan liêu

gắn liền với chế độ đẳng cấp phong kiến. Các cơ quan mang nặng tính cưỡng chế

như: quân đội, nhà tù, toà án. Cấu trúc bộ máy nhà nước phong kiến bao gồm:

Vua, Bộ máy giúp việc nhà vua ở trung ương ( triều đình) và hệ thống quan lại

giúp nhà vua ở địa phương.

Hình thức chính thể phổ biến nhất của nhà nước phong kiến là chính thể

quân chủ với những biến dạng khác nhau: chính thể quân chủ trung ương tập

quyền, chính thể quân chủ phân quyền cát cứ, chính thể quân chủ đại diện đẳng

cấp, chính thể quân chủ chuyên chế cực đoan.

* Kiểu nhà nước tư sản

9

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

Nhà nước tư sản ra đời do hai nguyên nhân chính về kinh tế và xã hội. Quan

hệ sản xuất phong kiến chỉ có ý nghĩa tiến bộ trong giai đoạn đầu của chế độ phong

kiến còn sang giai đoạn cuối thì nó trở thành lực cản sự phát triển của lực lượng

sản xuất, vì nhu cầu giải phóng sức lao động đã trở nên cấp bách, thế nhưng quan

hệ sản xuất phong kiến không thể đáp ứng được nhu cầu đó. Mâu thuẫn giữa quan

hệ sản xuất phong kiến với tính chất xã hội hoá và trình độ phát triển ngày càng

cao của lực lượng sản xuất càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết. Từ

mâu thuẫn về kinh tế dẫn tới mâu thuẫn gay gắt về xã hội giữa địa chủ và nông dân

cũng cần được giải quyết, do chế độ bằng phát canh thu tô của địa chủ. Ngay trong

lòng xã hội phong kiến ở giai đoạn cuối đã hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa và giai cấp tư sản muốn tiến hành cách mạng tư sản để xoá bỏ quan hệ sản

xuất phong kiến, thiết lập kiểu quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa. Con đường cơ bản và phổ biến nhất để giành quyền lực chính trị là cách

mạng xã hội, thay thế hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, thiết lập chính quyền

của giai cấp tư sản. Sự ra đời của nhà nước tư sản ở từng nước còn phụ thuộc vào

nhiều yếu tố khác nhau về lịch sử, xã hội do vậy có những đặc điểm riêng.

Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước bóc lột cuối cùng trong lịch sử, là công cụ

duy trì nền thống trị của giai cấp tư sản đối với tầng lớp nhân dân lao động

Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa

trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Đối tượng

sở hữu của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chủ yếu là công xưởng, hầm mỏ, nhà

máy, đồn điền với phương thức bóc lột giá trị thặng dư.

Cơ cấu giai cấp trong xã hội tư sản gồm hai giai cấp chính là tư sản và vô sản.

Nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội giai cấp tư sản giữ vai trò

thống trị xã hội. Về phương diện pháp lí giai cấp vô sản được tự do nhưng do không

có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động và trở thành người làm thuê cho giai cấp tư

sản chịu sự bóc lột của giai cấp tư sản. Ngoài ra trong xã hội còn có giai cấp nông

dân, tầng lớp tiểu tư sản và tri thức... Tôn giáo trong xã hội còn có vai trò quan trọng

10

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

nhưng không còn là quốc giáo như trong xã hội phong kiến, nhà thờ tách ra khỏi nhà

nước, tín ngưỡng là công việc của cá nhân. Nhà nước tư sản đặc biệt chú trọng

truyền bá hệ tư tưởng tư sản, đảm bảo vai trò thống trị của hệ tư tưởng này trong xã

hội, ngăn cản sự phát triển của các tư tưởng tiến bộ và cách mạng.

Bản chất của nhà nước tư sản được thể hiện qua các chức năng của nhà nước

tư sản: về đối nội nhà nước tư sản bảo vệ củng cố quyền sở hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động xã hội; bảo vệ củng cố tăng

cường nhà nước tư sản, đàn áp nhân dân lao động về tư tưởng, quản lí kinh tế tư

bản chủ nghĩa, tổ chức và quản lí văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và giải

quyết các vấn đề xã hội cấp bách khác... Về đối ngoại tiến hành các hoạt động bảo

vệ đất nước khỏi sự xâm lược từ bên ngoài, gây chiến tranh xâm lược để mở rộng

thuộc địa giành giật thị trường và phân chia lại thế giới, gây ảnh hưởng của mình

đối với các quốc gia khác và đặc biệt là chống lại sự ảnh hưởng từ phe các nước xã

hội chủ nghĩa.

Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực:

quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp nhằm tạo ra cơ chế đối trọng

kiềm chế nhau, kiểm soát nhau. Về cơ cấu có nghị viện, người đứng đầu nhà nước,

chính phủ, hệ thống các toà án và chính quyền địa phương.

Hình thức chính thể có hai loại chính thể quân chủ lập hiến (Anh, Nhật, Bỉ,

Hà Lan... và chính thể cộng hoà dân chủ tư sản với các hình thức chính thể cộng

hoà tổng thống ( Mỹ, Brazin, Côlômbia...), Cộng hoà đại nghị (Ý, Áo, Phần Lan,

Canada, Ấn Độ...), Cộng hoà hỗn hợp ( Pháp)

b) Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội

loài người đến thời điểm hiện nay. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa mang

tính tất yếu khách quan phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội.

11

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa là những tiền đề kinh

tế, xã hội và chính trị xuất hiện trong lòng xã hội tư bản.

Về mặt kinh tế: vào cuối thế kỷ 19, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã

bộc lộ tính trì trệ, kìm hãm sự phát triển sản xuất xã hội, không phù hợp với tính

chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức xã hội hóa cao, mâu

thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất ngày càng gay

gắt đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,

xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, đó chính là quan hệ

sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất – quan hệ sản xuất xã hội chủ

nghĩa. Đây là tiền đề cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Về mặt xã hội: Do mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản và

những người lao động khác ngày càng gay gắt. Giai cấp vô sản ngày càng lớn

mạnh cả về số lượng và chất lượng. Là đại biểu cho phương thức sản xuất mới giai

cấp vô sản ý thức được vai trò và sứ mạng lịch sử của mình lãnh đạo quần chúng

lao động tiến hành cách mạng xã hội lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, giải

phóng mình và các tầng lớp nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột thiết lập nhà

nước kiểu mới- nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Về mặt tư tưởng: Các lãnh tụ giai cấp vô sản đã sáng lập ra chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với kiểu

nhà nước bóc lột. Cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất

xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân

là giai cấp lãnh đạo nhà nước và xã hội quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công

nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ duy trì sự thống

trị của đa số với thiểu số là giai cấp bóc lột, thực hiện dân chủ với đa số là nhân

dân lao động, chuyên chính với thiểu số bóc lột, chống đối. Nhà nước xã hội chủ

nghĩa là bộ máy hành chính, cơ quan cưỡng chế đồng thời là một tổ chức quản lý

kinh tế- xã hội, là công cụ xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do và nhân đạo.

12

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

1.1.2.3. Hình thức nhà nước

Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương

pháp để thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là một khái niệm

chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc

nhà nước và chế độ chính trị.

a. Hình thức chính thể.

Đây là cách tổ chức và trình tự lập ra các cơ quan quyền lực tối cao của nhà

nước và xác lập các mối quan hệ cơ bản của các cơ quan đó. Hình thức chính thể

có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà.

- Chính thể quân chủ: là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước

tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên

tắc thừa kế (Vua, Quốc vương, Hoàng đế).

Chính thể quân chủ được chia thành: Chính thể quân chủ tuyệt đối và chính

thể quân chủ hạn chế. Trong các nước quân chủ tuyệt đối, người đứng đầu nhà

nước ( Vua, Hoàng đế ) có quyền lực vô hạn, còn trong các nhà nước quân chủ hạn

chế người đứng đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao và bên cạnh đó

còn có một cơ quan quyền lực khác nữa, như Nghị viện trong các nhà nước tư sản

có chính thể quân chủ (Nghị viện ở Anh, Nhật bản, Hà lan...)

- Chính thể cộng hoà là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước

thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định ( như Đại hội nhân

dân ở nhà nước Aten cổ đại, Nghị viện ở nhà nước cộng hoà tư sản, Quốc hội nhà

nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa).

Chính thể cộng hoà có hai hình thức chính là cộng hoà dân chủ và cộng hoà

quý tộc. Trong các nước cộng hoà dân chủ quyền tham gia bầu cử để bầu ra cơ

quan đại diện quyền lực của nhà nước quy định cho mọi công dân (trên thực tế chỉ

trong nhà nước cộng hoà dân chủ xã hội chủ nghĩa thì quyền bầu cử của công dân

mới được thực hiện đầy đủ, còn trong nhà nước bóc lột quy định này chỉ mang tính

13

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

chất hình thức). Trong các nước cộng hoà quý tộc quyền đó chỉ quy định đối với

tầng lớp quý tộc do pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện (Ví dụ: Nhà nước

cộng hoà quý tộc chủ nô Spac thế kỉ VI – IV trước công nguyên, Nhà nước cộng

hoà quý tộc chủ nô La Mã cổ đại thế kỉ VI – I trước công nguyên, hay chế độ cộng

hoà quý tộc một số thành phố ở Châu Âu dưới chế độ phong kiến như Venexơ,

Phơlorenxơ (Italia), Nôpgôrớt, Pơ - scốp (Nga).

Chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà có những đặc điểm khác nhau ở

những giai đoạn lịch sử khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất giai cấp, nhiệm vụ, mục

tiêu của nhà nước tập quán chính trị, mức độ đấu tranh giai cấp. Vì vậy khi nghiên

cứu hình thức chính thể của một nước nhất định cần phải gắn nó với những điều

kiện lịch sử cụ thể. Hầu hết các nước theo chính thể cộng hoà hiện nay đều là dưới

hình thức cộng hoà dân chủ với những biến dạng sau: Cộng hoà đại nghị, cộng hoà

tổng thống, cộng hoà hỗn hợp.

Tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước cộng hoà dân chủ

được đặc trưng bằng sự tham gia rộng rãi của nhân dân lao động vào việc thành lập

cơ quan đại diện của mình, cử tri trực tiếp bẩu ra các cơ quan quyền lực cao nhất,

cử tri cùng toàn thể nhân dân giám sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan dân cử,

nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội...

b. Hình thức cấu trúc nhà nước

Đây là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập

các mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương với địa

phương. Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là: Hình thức nhà nước đơn

nhất và hình thức nhà nước liên bang.

- Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan

quyền lực và quản lí thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn vị

hành chính bao gồm Tỉnh( Thành Phố), Huyện (quận), xã (phường). Và có một hệ

thống pháp luật thống nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia. Công dân mang một quốc

tịch (Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Campuchia, BaLan, Hungari, Pháp, Nhật...)

14

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN

- Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nhà nước thành viên

hợp lại. Nhà nước liên bang có chủ quyền chung, nhưng mỗi nhà nước thành viên

có chủ quyền riêng; có hai hệ thống các cơ quan nhà nước - một của nhà nước liên

bang, một của nhà nước thành viên; có hai hệ thống pháp luật - một của nhà nước

liên bang và một của mỗi nhà nước thành viên; công dân mang hai quốc tịch ( Mỹ,

Mêhicô, Ấn độ, Brazin, Malaixia, Liên xô trước đây...)

- Còn một loại hình thức nhà nước khác nữa là nhà nước liên minh. Nhà

nước liên minh chỉ là sự liên kết tạm thời của một vài nhà nước để thực hiện những

nhiệm vụ nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhà nước liên minh tự giải tán

hoặc có thể chuyển thành nhà nước liên bang ( ví dụ từ năm 1776 đến 1787 Hợp

chủng quốc Hoa Kỳ là nhà nước liên minh, sau đó phát triển thành nhà nước liên

bang), hay các liên minh về kinh tế hiện nay.

c. Chế độ chính trị

Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp và thủ đoạn mà cơ quan nhà

nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước

Từ khi có nhà nước cho đến nay, giai cấp thống trị đã sử dụng nhiều phương

pháp cai trị nhưng nhìn chung là có hai phương pháp chính là dân chủ và phản

dân chủ.

Tương ứng với hai phương pháp ấy là hai chế độ nhà nước: chế độ dân chủ

(chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ quý tộc phong kiến, chế độ tư sản, chế độ

dân chủ xã hội chủ nghĩa) và chế độ phản dân chủ ( chế độ độc tài chuyên chế chủ

nô, chế độ độc tài chuyên chế phong kiến, chế độ độc tài phát xít tư sản).

1.2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1.2.1. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc kiểu nhà nước xã hội

chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, có bản chất khác với

bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa do

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!