Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phân tích nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Luận văn thạc sĩ kinh tế / Đỗ Hoàng Oanh
PREMIUM
Số trang
109
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1438

Phân tích nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Luận văn thạc sĩ kinh tế / Đỗ Hoàng Oanh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

-----OO0OO -----

ĐỖ HOÀNG OANH

PHÂN TÍCH NỢ NƯỚC NGOÀI

VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính, ngân hàng

Mã số: 60.31.12

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ TUYẾT HOA

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013

- 1 -

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH

TẾ

1.1.1. Nợ nước ngoài

1.1.1.1. Khái niệm nợ nước ngoài

Theo nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ

về quy chế vay và trả nợ nước ngoài, định nghĩa nợ nước ngoài của quốc gia là số dư

của mọi nghĩa vụ nợ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và

lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài của Việt Nam. Nợ nước ngoài của

quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của khu vực tư

nhân. Nợ nước ngoài của khu vực công bao gồm nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ

nước ngoài (nếu có) của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nợ

nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng nhà

nước và các tổ chức kinh tế nhà nước (sau đây gọi tắt là doanh nghiệp nhà nước)

trực tiếp vay nước ngoài. Nợ nước ngoài của Chính phủ là số dư mọi nghĩa vụ nợ

hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời

điểm của các khoản vay nước ngoài của Chính phủ. Nợ nước ngoài của khu vực tư

nhân là nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc khu vực tư nhân

(sau đây gọi tắt là doanh nghiệp tư nhân). Như vậy, theo cách hiểu này thì nợ nước

ngoài là tất cả những khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam (bao gồm

cả chính phủ, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) nhưng không bao

gồm nợ của thể nhân (tức là nợ của cá nhân và hộ gia đình).

Theo tài liệu tập huấn các chính sách và lập trình tài chính (khóa học tại Việt

Nam từ 23/08/09 - 03/09/09) (IMF, 1999) "tổng nợ nước ngoài là tổng khối lượng

tài sản nợ (tính theo giá trị hiện tại) cam kết đối với những người không cư trú. Cam

kết ở đây được hiểu là nghĩa vụ cam kết đối với các khoản nợ ngắn hạn, dài hạn đã

được giải ngân, của trái phiếu và tín dụng thương mại (kể cả nợ gốc lẫn lãi)". (Hạ

Thị Thiều Dao, 2012)[3].

- 2 -

Theo 8 tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài, gồm Ngân hàng

Thanh toán Quốc tế, Ban thư ký khối Thịnh Vượng chung, Tổ chức Thống kê Châu

Âu, Quỹ tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Ban thư ký Câu lạc

bộ Paris, Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc, nợ nước ngoài

được thống nhất định nghĩa: "Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào, là tổng

dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm đó, không bao gồm các nghĩa vụ nợ dự

phòng, đòi hỏi người đi vay phải thanh toán nợ gốc có hay không có lãi trong tương

lai và khoản nợ này là nợ của người cư trú với người không cư trú trong quốc gia"

(IMF, 2003a). Như vậy, theo định nghĩa được quốc tế thừa nhận rộng rãi này, nợ

nước ngoài của một nước là tất cả các khoản nợ của nước đó với nước ngoài, bất kể

người đi vay là Chính phủ, các Tổ chức của Chính phủ hay các doanh nghiệp tư

nhân; các chủ nợ có thể là các Tổ chức quốc tế, Chính phủ, các Tổ chức thuộc

Chính Phủ hoặc các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài. (Hạ Thị Thiều Dao, 2012)

[3].

Về thời hạn vay nợ nước ngoài, tại điều 2 nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01

tháng 11 năm 2005 của Chính phủ về quy chế vay và trả nợ nước ngoài đề cập, thời

hạn vay nước ngoài của Việt Nam bao gồm các khoản vay ngắn hạn (có thời hạn

vay đến một năm), trung và dài hạn (có thời hạn vay trên một năm), có hoặc không

phải trả lãi, do Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và các tổ chức là người cư trú ở Việt

Nam (sau đây gọi tắt là người vay) vay của các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ

các nước, các tổ chức và cá nhân là người không cư trú (sau đây gọi tắt là người cho

vay nước ngoài). Trong khi đó, nợ nước ngoài của các tổ chức thống kê nợ quốc tế

chỉ có nợ ngắn hạn và dài hạn (IMF, 2003) [16].

Tuy nhiên, hiện nay các thể nhân Việt Nam (cá nhân và hộ gia đình) vẫn chưa

được phép vay nước ngoài, cho nên khái niệm nợ nước ngoài không ảnh hưởng đến

việc đánh giá tình trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam.

- 3 -

1.1.1.2. Phân loại nợ nước ngoài

Hiện nay tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu của việc vay, cho vay hay quản lý

nợ mà nợ nước ngoài được phân thành nhiều loại khác nhau.

 Phân loại theo kỳ hạn nợ

Dựa theo kỳ hạn nợ, nợ nước ngoài được phân thành nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.

Nợ nước ngoài ngắn hạn: là các khoản nợ vay có thời gian đáo hạn từ một năm

trở xuống. Các nhà quản lý thận trọng khi tỷ trọng nợ nước ngoài ngắn hạn trong

tổng nợ nước ngoài có tăng lên vì điều này có thể gây bất ổn cho nền kinh tế và tạo

áp lực về tính thanh khoản trong khoản nợ cho chính phủ. Nợ ngắn hạn có ý nghĩa

quan trọng, nó là yếu tố tiềm ẩn báo hiệu tính rủi ro của một nền kinh tế, và là một

trong những nguyên nhân chính yếu gây ra tình trạng nền kinh tế mất khả năng

thanh khoản, gây nên khủng hoảng kinh tế của Thái Lan, Malaysia (tháng 3/1995),

Hồng Kông, Hàn Quốc năm 1997. Theo F. Mishkin, The Economics of Money

(2010), Banking and Financial Markets đã tiếp cận giải thích một trong những

Tổng nợ công

Nợ tư nước

ngoài

Nợ công nước

ngoài

Nợ công trong

nước

Nợ tư trong

nước

Tổng nợ

Nợ nước ngoài Nợ trong nước

Nợ chính phủ Nợ được CP bảo

lãnh

Nguồn: World Bank (2006). How to do a Debt Sustainability Analysis for

Low-Income Countries. A Guide to LIC Debt Sustainability Analysis

Hình 1.1. Cấu trúc nợ của Việt Nam

- 4 -

nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khủng hoảng Châu Á năm 1997 là do thị trường nợ ở

các quốc gia mới nổi khu vực Đông Á có đặc trưng là những hợp đồng nợ có kỳ hạn

rất ngắn, thường là dưới một tháng. Do đó lãi suất ngắn hạn tăng lên ở những quốc

gia này đồng nghĩa với tác động rất lớn đến dòng tiền và bảng cân đối kế toán của

các đơn vị trong nền kinh tế, từ đó tác động xấu tới bảng cân đối tài sản, tiêu hao tài

sản của doanh nghiệp và hộ gia đình, làm cho rủi ro ở thị trường vay nợ cũng tăng

theo và những tổ chức cho vay trong và ngoài nước không còn muốn tiếp tục cho

vay. Do đó, hoạt động cấp tín dụng và cho vay sụt giảm thì cũng đồng nghĩa với

việc các hoạt động của nền kinh tế bị đình trệ và tốc độ tăng trưởng GDP thực cũng

sẽ sụt giảm theo, điều này gây tiêu cực đến hệ thống ngân hàng, dẫn đến khủng

hoảng ngân hàng và khủng hoảng tài chính xảy ra.

Nợ nước ngoài trung dài hạn: là các khoản nợ nước ngoài có thời gian đáo hạn từ

một năm trở lên. Nợ nước ngoài dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ nước

ngoài và có ảnh hưởng lớn đến nền tài chính quốc gia.

 Phân loại nợ nước ngoài theo chủ thể đi vay

Với tiêu thức này, nợ nước ngoài bao gồm nợ chính thức và nợ tư nhân.

Nợ chính thức: là nợ Chính phủ, nợ chính quyền địa phương và nợ được Chính

phủ bảo lãnh, là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay nước ngoài được ký kết, phát

hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ tài

chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật, khoản nợ

do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và nợ của các cơ quan hành chính

tỉnh, thành phố. Ngoài ra, khoản nợ được doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng

vay nước ngoài được chính phủ bảo lãnh vay và trong trường hợp vỡ nợ, chính phủ

trả nợ thay, cũng được xem là nợ chính thức.

Nợ tư nhân: là nợ do doanh nghiệp trực tiếp vay mượn, nợ trên thị trường trái

phiếu, hoặc nợ chính quyền địa phương nhưng không do chính phủ bảo lãnh và nợ

tư nhân khác.

 Phân loại nợ nước ngoài theo chủ nợ

Chủ nợ nước ngoài được chia thành chủ nợ song phương và chủ nợ đa phương.

- 5 -

Chủ nợ đa phương: thường là các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới

(World Bank), các ngân hàng phát triển khu vực và đa phương, các cơ quan chính

phủ khác cho vay được quản lý trên cơ sở đa phương. Quỹ được quản lý bởi một tổ

chức tài chính quốc tế đại diện cho một chính phủ các nhà tài trợ, các chủ nợ này

bao gồm Ngân hàng Phát triển Châu Phi (African Development Bank), Ngân hàng

Phát triển Châu Á (Asian Development Bank), Ngân hàng liên hiệp phát triển Hoa

Kỳ (the inter-American Development Bank), Ngân hàng Kiến thiết và Phát triển

(the International Bank for Reconstruction and Development (IBRD)) và Liên hiệp

phát triển (International Development Association IDA). (IBRD và IDA là các tổ

chức của Ngân hàng Thế giới).

Chủ nợ song phương: là chính phủ của một nước hay từ các tổ chức quốc tế

nhưng nhân danh một chủ thể duy nhất. Bao gồm cả các ngân hàng trung ương, các

cơ quan viện trợ, các cơ quan tín dụng xuất khẩu chính thức và các cơ quan khác

như Bộ Nông nghiệp Mỹ (department of Agriculture), hệ thống Ngân hàng cho vay

nội bộ (the Federal Home Loan Bank), các nước thành viên của Ủy ban OECD hỗ

trợ phát triển (the OECD Development Assistance Committee)... (Nguồn:

worldbank) [18].

 Phân loại nợ nước ngoài theo tính chất của khoản vay

Bao gồm nợ vay ưu đãi và nợ vay không ưu đãi.

Nợ vay ưu đãi: Năm 1972, Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề ra

khoản “hỗ trợ phát triển chính thức” với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển

kinh tế, xã hội của các nước đang và chậm phát triển trên toàn Thế Giới. Một khoản

nợ được xem là nợ vay ưu đãi khi thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất

25%. Điều này thể hiện ở chỗ giá trị khoản vay lớn; thời hạn cho vay và thời gian

ân hạn dài; lãi suất vay thấp thường dao động từ 0.5% đến 5%/ năm. Tuy nhiên,

những khoản vay ưu đãi song phương (thông thường là ODA song phương) hay

kèm theo các điều kiện nhất định về kinh tế, xã hội và thậm chí về chính trị. Thông

thường, đó là các ràng buộc về hợp đồng cung cấp thiết bị, hàng hóa và dịch vụ của

bên tài trợ đối với nước được nhận tài trợ.

- 6 -

Nợ vay không ưu đãi: chẳng hạn như vay dưới hình thức phát hành giấy nợ (khi

cần vốn, chính phủ có thể phát hành giấy nợ như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính

phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình v.v...), chủ thể cho vay có thể là người

cư trú hoặc không cư trú. Với cách vay nợ này, chính phủ sẽ chủ động trong xác

định giá trị khoản vay, lãi suất và kỳ hạn vay. Giấy nợ của chính phủ còn là công cụ

hữu dụng cho ngân hàng trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ thông

qua nghiệp vụ thị trường mở. Đây là hình thức vay nợ chủ yếu tại các quốc gia đã

phát triển. Hay khoản vay thương mại, khoản vay các NHTM, định chế tài chính, tổ

chức khác trong và ngoài nước của Chính phủ. Khác với vay hỗ trợ phát triển chính

thức, khoản vay thương mại thường không được ưu đãi về lãi suất, thời gian cho

vay và ân hạn. Do vậy chi phí khi vay thương mại thường khá cao và chứa đựng

nhiều rủi ro.

1.1.1.3. Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối với các quốc gia có

thu nhập thấp và trung bình thấp.

 Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài theo sáng kiến HIPCs

Ra mắt vào năm 1996, sáng kiến ban đầu cho các nước nghèo nợ nhiều (HIPCs)

đánh dấu lần đầu tiên các chủ nợ song phương, đa phương, Câu lạc bộ Paris đã

thống nhất trong một nỗ lực chung để giảm nợ nước ngoài của hầu hết các quốc gia

nghèo mắc nợ lớn trên thế giới để đưa các quốc gia này từ tình trạng chịu áp lực

gánh nặng nợ nần quá mức về tình trạng quốc gia có mức nợ bền vững. Theo IMF

(2001) [19], dựa trên hai tiêu chí cơ bản như sau:

- Nợ nước ngoài trên xuất khẩu là trên 150%.

- Nợ nước ngoài trên thu ngân sách là trên 250%.

Đối với các quốc gia có nền kinh tế mở ( tỷ lệ xuất khẩu trên GDP hơn 30% và

thu ngân sách trên GDP trên 15%) vẫn có thể đối mặt với tình trạng nợ không bền

vững.

 Đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài theo quan điểm của Ngân

Hàng Thế Giới

- 7 -

P. Hjertholm (2001), Debt relief and the rule of thumb: Analytical History of

HIPC Debt Sustainability Targets, World Institude for Development Economics

Research. Mục đích chính của hệ thống phân loại là để cung cấp phương thức đơn

giản hỗ trợ cho việc đánh giá gánh nặng nợ nước ngoài của các quốc gia mà theo

đó, các gánh nặng nợ nước ngoài này đã làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Hệ

thống phân loại được trình bày trong World debt table (WDT) 1989-1990, cho thấy

không chỉ áp lực từ gánh nặng nợ nước ngoài đã làm ảnh hưởng bất lợi phát triển

kinh tế, mà còn gây ra áp lực lên nghĩa vụ nợ và khả năng trả nợ nước ngoài của

quốc gia đó.

Theo WDT 1989 - 1990, lựa chọn bốn chỉ tiêu cơ bản là tỷ lệ nợ nước ngoài trên

GNI, nợ nước ngoài trên xuất khẩu, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài dự kiến (năm tới)

trên xuất khẩu và tỷ lệ dự kiến trả lãi trên xuất khẩu. Lý do, lựa chọn bốn chỉ tiêu cơ

bản này là vì nợ nước ngoài/GNI đo lường khả năng trả được nợ nước ngoài thông

qua thu nhập quốc dân được tạo ra. Nợ nước ngoài/ xuất khẩu vì xuất khẩu là nguồn

thu ngoại tệ trực tiếp và thường xuyên của một quốc gia. Nghĩa vụ nợ nước

ngoài/xuất khẩu phản ánh nghĩa vụ nợ nước ngoài phải trả so với khả năng xuất

khẩu hàng hóa của quốc gia đó. Trả lãi/xuất khẩu đo mức lãi sinh ra từ nợ nước

ngoài cam kết phải trả theo quy định trên cam kết vay nợ nước ngoài của quốc gia

đó, từ đó qua chỉ tiêu ta có thể thấy áp lực nợ nần của một quốc gia đang ở mức độ

nào.

Theo báo cáo phát triển thế giới ngày 01/07/2012, nước có GNI trên người nhỏ

hơn 1.025 USD được xếp vào nhóm thu nhập thấp; từ 1.026 - 4.035 USD là nước

thu nhập trung bình-thấp; từ 4.036 - 12.475 USD là nước có thu nhập trung bình cao

và từ trên 12.476 USD là nước có thu nhập cao.

Căn cứ vào bốn chỉ tiêu này, các nước con nợ được phân thành bốn nhóm như

sau:

MIMICs: Các nước thu nhập trung bình mắc nợ vừa phải.

SIMICs: Các nước thu nhập trung bình mắc nợ nghiêm trọng.

MILICs: Các nước thu nhập thấp mắc nợ vừa phải.

- 8 -

SILICs: Các nước thu nhập thấp mắc nợ nghiêm trọng

Ta có thể tóm tắt bản chỉ tiêu như sau:

Bảng 1.1. Phân loại nợ

Nợ quá nhiều Nợ vừa phải Nợ ít

Nợ nước ngoài/GNI >50% 30-50% <30%

Nợ nước ngoài/Xuất khẩu >275% 165-275% <165%

Trả nợ nước ngoài/Xuất khẩu >30% 18-30% <18%

Trả lãi nước ngoài/Xuất khẩu >20% 12-20% <12%

Nguồn: P. Hjertholm (2001), Debt relief and the rule of thumb:Analytical History of HIPC Debt

Sustainability Targets, World Institude for Development Economics Research

1.1.2. Tăng trưởng kinh tế

1.1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng

thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc

độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng

được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay

chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện

vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNI và được

tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người. Bản chất của tăng

trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng

trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay việc đảm bảo chất lượng tăng

trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự

gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân

đầu người.

Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện bằng hai cách:

Cách thứ nhất là sự tăng lên của: Tổng sản phẩm quốc dân (GNI); Sản phẩm

quốc dân ròng (NNP); Tổng sản phẩm quốc nội (GDP); Thu nhập quốc dân khả

dụng (NDI). Cách thứ nhất này đơn thuần chỉ thể hiện việc mở rộng sản lượng quốc

gia của một quốc gia.

- 9 -

Cách thứ hai là sự tăng lên theo đầu người của các chỉ tiêu trên – cụ thể là: Tổng

sản phẩm quốc dân trên đầu người (GNI/đầu người); Sản phẩm quốc dân ròng trên

đầu người (NNP/đầu người); Tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người (GDP/đầu

người); Thu nhập quốc dân khả dụng trên đầu người (NDI/đầu người). Cách thứ hai

này thể hiện sự tăng trưởng mức sống của một quốc gia. Bằng các chỉ tiêu này có

thể so sánh mức sống giữa các quốc gia khác nhau.

1.1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế

Sự tăng trưởng của nền kinh tế được biểu hiện bằng sự tăng thêm sản lượng

hàng năm do nền kinh tế tạo ra.

Thước đo của sự tăng trưởng kinh tế thường thể hiện bằng một số chỉ tiêu chủ

yếu như sau:

 Một là, tổng thu nhập quốc dân (GNI)

Hiện nay Ngân hàng Thế giới sử dụng tổng thu nhập quốc dân GNI. Tổng thu

nhập quốc dân (GNI – trước đây là tổng sản phẩm quốc dân hay GNP) là thước đo

tổng hợp lớn nhất của thu nhập quốc dân, đo lường toàn bộ tổng giá trị gia tăng từ

các nguồn trong nước và nước ngoài do những người cư trú của nước đó tạo ra.

GNI bao gồm tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cộng với các khoản thu ròng từ thu

nhập ban đầu trong các nguồn phi cư trú.

Phương pháp Atlas Ngân Hàng Thế Giới: Tính toán GNI và GNI trên đầu người

theo đồng đôla Mỹ cho các mục đích nghiệp vụ nhất định. Ngân hàng Thế giới sử

dụng một hệ số chuyển đổi Atlas. Mục đích của hệ số chuyển đổi Atlas là làm giảm

ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái khi so sánh thu nhập quốc dân giữa các

nước. Hệ số chuyển đổi Atlas cho một năm bất kỳ là mức trung bình của tỷ giá hối

đoái của một nước (hay hệ số chuyển đổi khác) trong năm đó và tỷ giá hối đoái của

nước đó trong hai năm trước đó, hệ số này được điều chỉnh theo sự chênh lệch về tỷ

lệ lạm phát trong nước với các nước trong 5 nhóm nước (G-5) (Pháp, Đức, Nhật

Bản, Anh và Mỹ).

Công thức cách tính hệ số chuyển đổi Atlas cho năm t:

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!