Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phân tích nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Luận văn thạc sĩ kinh tế / Đỗ Hoàng Oanh
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
-----OO0OO -----
ĐỖ HOÀNG OANH
PHÂN TÍCH NỢ NƯỚC NGOÀI
VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
CỦA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính, ngân hàng
Mã số: 60.31.12
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ TUYẾT HOA
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013
- 1 -
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ
1.1.1. Nợ nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm nợ nước ngoài
Theo nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ
về quy chế vay và trả nợ nước ngoài, định nghĩa nợ nước ngoài của quốc gia là số dư
của mọi nghĩa vụ nợ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và
lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài của Việt Nam. Nợ nước ngoài của
quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của khu vực tư
nhân. Nợ nước ngoài của khu vực công bao gồm nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ
nước ngoài (nếu có) của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nợ
nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng nhà
nước và các tổ chức kinh tế nhà nước (sau đây gọi tắt là doanh nghiệp nhà nước)
trực tiếp vay nước ngoài. Nợ nước ngoài của Chính phủ là số dư mọi nghĩa vụ nợ
hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời
điểm của các khoản vay nước ngoài của Chính phủ. Nợ nước ngoài của khu vực tư
nhân là nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc khu vực tư nhân
(sau đây gọi tắt là doanh nghiệp tư nhân). Như vậy, theo cách hiểu này thì nợ nước
ngoài là tất cả những khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam (bao gồm
cả chính phủ, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) nhưng không bao
gồm nợ của thể nhân (tức là nợ của cá nhân và hộ gia đình).
Theo tài liệu tập huấn các chính sách và lập trình tài chính (khóa học tại Việt
Nam từ 23/08/09 - 03/09/09) (IMF, 1999) "tổng nợ nước ngoài là tổng khối lượng
tài sản nợ (tính theo giá trị hiện tại) cam kết đối với những người không cư trú. Cam
kết ở đây được hiểu là nghĩa vụ cam kết đối với các khoản nợ ngắn hạn, dài hạn đã
được giải ngân, của trái phiếu và tín dụng thương mại (kể cả nợ gốc lẫn lãi)". (Hạ
Thị Thiều Dao, 2012)[3].
- 2 -
Theo 8 tổ chức quốc tế nghiên cứu thống kê nợ nước ngoài, gồm Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế, Ban thư ký khối Thịnh Vượng chung, Tổ chức Thống kê Châu
Âu, Quỹ tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Ban thư ký Câu lạc
bộ Paris, Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc, nợ nước ngoài
được thống nhất định nghĩa: "Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào, là tổng
dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm đó, không bao gồm các nghĩa vụ nợ dự
phòng, đòi hỏi người đi vay phải thanh toán nợ gốc có hay không có lãi trong tương
lai và khoản nợ này là nợ của người cư trú với người không cư trú trong quốc gia"
(IMF, 2003a). Như vậy, theo định nghĩa được quốc tế thừa nhận rộng rãi này, nợ
nước ngoài của một nước là tất cả các khoản nợ của nước đó với nước ngoài, bất kể
người đi vay là Chính phủ, các Tổ chức của Chính phủ hay các doanh nghiệp tư
nhân; các chủ nợ có thể là các Tổ chức quốc tế, Chính phủ, các Tổ chức thuộc
Chính Phủ hoặc các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài. (Hạ Thị Thiều Dao, 2012)
[3].
Về thời hạn vay nợ nước ngoài, tại điều 2 nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01
tháng 11 năm 2005 của Chính phủ về quy chế vay và trả nợ nước ngoài đề cập, thời
hạn vay nước ngoài của Việt Nam bao gồm các khoản vay ngắn hạn (có thời hạn
vay đến một năm), trung và dài hạn (có thời hạn vay trên một năm), có hoặc không
phải trả lãi, do Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và các tổ chức là người cư trú ở Việt
Nam (sau đây gọi tắt là người vay) vay của các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ
các nước, các tổ chức và cá nhân là người không cư trú (sau đây gọi tắt là người cho
vay nước ngoài). Trong khi đó, nợ nước ngoài của các tổ chức thống kê nợ quốc tế
chỉ có nợ ngắn hạn và dài hạn (IMF, 2003) [16].
Tuy nhiên, hiện nay các thể nhân Việt Nam (cá nhân và hộ gia đình) vẫn chưa
được phép vay nước ngoài, cho nên khái niệm nợ nước ngoài không ảnh hưởng đến
việc đánh giá tình trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam.
- 3 -
1.1.1.2. Phân loại nợ nước ngoài
Hiện nay tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu của việc vay, cho vay hay quản lý
nợ mà nợ nước ngoài được phân thành nhiều loại khác nhau.
Phân loại theo kỳ hạn nợ
Dựa theo kỳ hạn nợ, nợ nước ngoài được phân thành nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nợ nước ngoài ngắn hạn: là các khoản nợ vay có thời gian đáo hạn từ một năm
trở xuống. Các nhà quản lý thận trọng khi tỷ trọng nợ nước ngoài ngắn hạn trong
tổng nợ nước ngoài có tăng lên vì điều này có thể gây bất ổn cho nền kinh tế và tạo
áp lực về tính thanh khoản trong khoản nợ cho chính phủ. Nợ ngắn hạn có ý nghĩa
quan trọng, nó là yếu tố tiềm ẩn báo hiệu tính rủi ro của một nền kinh tế, và là một
trong những nguyên nhân chính yếu gây ra tình trạng nền kinh tế mất khả năng
thanh khoản, gây nên khủng hoảng kinh tế của Thái Lan, Malaysia (tháng 3/1995),
Hồng Kông, Hàn Quốc năm 1997. Theo F. Mishkin, The Economics of Money
(2010), Banking and Financial Markets đã tiếp cận giải thích một trong những
Tổng nợ công
Nợ tư nước
ngoài
Nợ công nước
ngoài
Nợ công trong
nước
Nợ tư trong
nước
Tổng nợ
Nợ nước ngoài Nợ trong nước
Nợ chính phủ Nợ được CP bảo
lãnh
Nguồn: World Bank (2006). How to do a Debt Sustainability Analysis for
Low-Income Countries. A Guide to LIC Debt Sustainability Analysis
Hình 1.1. Cấu trúc nợ của Việt Nam
- 4 -
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khủng hoảng Châu Á năm 1997 là do thị trường nợ ở
các quốc gia mới nổi khu vực Đông Á có đặc trưng là những hợp đồng nợ có kỳ hạn
rất ngắn, thường là dưới một tháng. Do đó lãi suất ngắn hạn tăng lên ở những quốc
gia này đồng nghĩa với tác động rất lớn đến dòng tiền và bảng cân đối kế toán của
các đơn vị trong nền kinh tế, từ đó tác động xấu tới bảng cân đối tài sản, tiêu hao tài
sản của doanh nghiệp và hộ gia đình, làm cho rủi ro ở thị trường vay nợ cũng tăng
theo và những tổ chức cho vay trong và ngoài nước không còn muốn tiếp tục cho
vay. Do đó, hoạt động cấp tín dụng và cho vay sụt giảm thì cũng đồng nghĩa với
việc các hoạt động của nền kinh tế bị đình trệ và tốc độ tăng trưởng GDP thực cũng
sẽ sụt giảm theo, điều này gây tiêu cực đến hệ thống ngân hàng, dẫn đến khủng
hoảng ngân hàng và khủng hoảng tài chính xảy ra.
Nợ nước ngoài trung dài hạn: là các khoản nợ nước ngoài có thời gian đáo hạn từ
một năm trở lên. Nợ nước ngoài dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ nước
ngoài và có ảnh hưởng lớn đến nền tài chính quốc gia.
Phân loại nợ nước ngoài theo chủ thể đi vay
Với tiêu thức này, nợ nước ngoài bao gồm nợ chính thức và nợ tư nhân.
Nợ chính thức: là nợ Chính phủ, nợ chính quyền địa phương và nợ được Chính
phủ bảo lãnh, là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay nước ngoài được ký kết, phát
hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ tài
chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật, khoản nợ
do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và nợ của các cơ quan hành chính
tỉnh, thành phố. Ngoài ra, khoản nợ được doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng
vay nước ngoài được chính phủ bảo lãnh vay và trong trường hợp vỡ nợ, chính phủ
trả nợ thay, cũng được xem là nợ chính thức.
Nợ tư nhân: là nợ do doanh nghiệp trực tiếp vay mượn, nợ trên thị trường trái
phiếu, hoặc nợ chính quyền địa phương nhưng không do chính phủ bảo lãnh và nợ
tư nhân khác.
Phân loại nợ nước ngoài theo chủ nợ
Chủ nợ nước ngoài được chia thành chủ nợ song phương và chủ nợ đa phương.
- 5 -
Chủ nợ đa phương: thường là các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới
(World Bank), các ngân hàng phát triển khu vực và đa phương, các cơ quan chính
phủ khác cho vay được quản lý trên cơ sở đa phương. Quỹ được quản lý bởi một tổ
chức tài chính quốc tế đại diện cho một chính phủ các nhà tài trợ, các chủ nợ này
bao gồm Ngân hàng Phát triển Châu Phi (African Development Bank), Ngân hàng
Phát triển Châu Á (Asian Development Bank), Ngân hàng liên hiệp phát triển Hoa
Kỳ (the inter-American Development Bank), Ngân hàng Kiến thiết và Phát triển
(the International Bank for Reconstruction and Development (IBRD)) và Liên hiệp
phát triển (International Development Association IDA). (IBRD và IDA là các tổ
chức của Ngân hàng Thế giới).
Chủ nợ song phương: là chính phủ của một nước hay từ các tổ chức quốc tế
nhưng nhân danh một chủ thể duy nhất. Bao gồm cả các ngân hàng trung ương, các
cơ quan viện trợ, các cơ quan tín dụng xuất khẩu chính thức và các cơ quan khác
như Bộ Nông nghiệp Mỹ (department of Agriculture), hệ thống Ngân hàng cho vay
nội bộ (the Federal Home Loan Bank), các nước thành viên của Ủy ban OECD hỗ
trợ phát triển (the OECD Development Assistance Committee)... (Nguồn:
worldbank) [18].
Phân loại nợ nước ngoài theo tính chất của khoản vay
Bao gồm nợ vay ưu đãi và nợ vay không ưu đãi.
Nợ vay ưu đãi: Năm 1972, Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề ra
khoản “hỗ trợ phát triển chính thức” với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, xã hội của các nước đang và chậm phát triển trên toàn Thế Giới. Một khoản
nợ được xem là nợ vay ưu đãi khi thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất
25%. Điều này thể hiện ở chỗ giá trị khoản vay lớn; thời hạn cho vay và thời gian
ân hạn dài; lãi suất vay thấp thường dao động từ 0.5% đến 5%/ năm. Tuy nhiên,
những khoản vay ưu đãi song phương (thông thường là ODA song phương) hay
kèm theo các điều kiện nhất định về kinh tế, xã hội và thậm chí về chính trị. Thông
thường, đó là các ràng buộc về hợp đồng cung cấp thiết bị, hàng hóa và dịch vụ của
bên tài trợ đối với nước được nhận tài trợ.
- 6 -
Nợ vay không ưu đãi: chẳng hạn như vay dưới hình thức phát hành giấy nợ (khi
cần vốn, chính phủ có thể phát hành giấy nợ như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính
phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình v.v...), chủ thể cho vay có thể là người
cư trú hoặc không cư trú. Với cách vay nợ này, chính phủ sẽ chủ động trong xác
định giá trị khoản vay, lãi suất và kỳ hạn vay. Giấy nợ của chính phủ còn là công cụ
hữu dụng cho ngân hàng trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ thông
qua nghiệp vụ thị trường mở. Đây là hình thức vay nợ chủ yếu tại các quốc gia đã
phát triển. Hay khoản vay thương mại, khoản vay các NHTM, định chế tài chính, tổ
chức khác trong và ngoài nước của Chính phủ. Khác với vay hỗ trợ phát triển chính
thức, khoản vay thương mại thường không được ưu đãi về lãi suất, thời gian cho
vay và ân hạn. Do vậy chi phí khi vay thương mại thường khá cao và chứa đựng
nhiều rủi ro.
1.1.1.3. Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối với các quốc gia có
thu nhập thấp và trung bình thấp.
Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài theo sáng kiến HIPCs
Ra mắt vào năm 1996, sáng kiến ban đầu cho các nước nghèo nợ nhiều (HIPCs)
đánh dấu lần đầu tiên các chủ nợ song phương, đa phương, Câu lạc bộ Paris đã
thống nhất trong một nỗ lực chung để giảm nợ nước ngoài của hầu hết các quốc gia
nghèo mắc nợ lớn trên thế giới để đưa các quốc gia này từ tình trạng chịu áp lực
gánh nặng nợ nần quá mức về tình trạng quốc gia có mức nợ bền vững. Theo IMF
(2001) [19], dựa trên hai tiêu chí cơ bản như sau:
- Nợ nước ngoài trên xuất khẩu là trên 150%.
- Nợ nước ngoài trên thu ngân sách là trên 250%.
Đối với các quốc gia có nền kinh tế mở ( tỷ lệ xuất khẩu trên GDP hơn 30% và
thu ngân sách trên GDP trên 15%) vẫn có thể đối mặt với tình trạng nợ không bền
vững.
Đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài theo quan điểm của Ngân
Hàng Thế Giới
- 7 -
P. Hjertholm (2001), Debt relief and the rule of thumb: Analytical History of
HIPC Debt Sustainability Targets, World Institude for Development Economics
Research. Mục đích chính của hệ thống phân loại là để cung cấp phương thức đơn
giản hỗ trợ cho việc đánh giá gánh nặng nợ nước ngoài của các quốc gia mà theo
đó, các gánh nặng nợ nước ngoài này đã làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Hệ
thống phân loại được trình bày trong World debt table (WDT) 1989-1990, cho thấy
không chỉ áp lực từ gánh nặng nợ nước ngoài đã làm ảnh hưởng bất lợi phát triển
kinh tế, mà còn gây ra áp lực lên nghĩa vụ nợ và khả năng trả nợ nước ngoài của
quốc gia đó.
Theo WDT 1989 - 1990, lựa chọn bốn chỉ tiêu cơ bản là tỷ lệ nợ nước ngoài trên
GNI, nợ nước ngoài trên xuất khẩu, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài dự kiến (năm tới)
trên xuất khẩu và tỷ lệ dự kiến trả lãi trên xuất khẩu. Lý do, lựa chọn bốn chỉ tiêu cơ
bản này là vì nợ nước ngoài/GNI đo lường khả năng trả được nợ nước ngoài thông
qua thu nhập quốc dân được tạo ra. Nợ nước ngoài/ xuất khẩu vì xuất khẩu là nguồn
thu ngoại tệ trực tiếp và thường xuyên của một quốc gia. Nghĩa vụ nợ nước
ngoài/xuất khẩu phản ánh nghĩa vụ nợ nước ngoài phải trả so với khả năng xuất
khẩu hàng hóa của quốc gia đó. Trả lãi/xuất khẩu đo mức lãi sinh ra từ nợ nước
ngoài cam kết phải trả theo quy định trên cam kết vay nợ nước ngoài của quốc gia
đó, từ đó qua chỉ tiêu ta có thể thấy áp lực nợ nần của một quốc gia đang ở mức độ
nào.
Theo báo cáo phát triển thế giới ngày 01/07/2012, nước có GNI trên người nhỏ
hơn 1.025 USD được xếp vào nhóm thu nhập thấp; từ 1.026 - 4.035 USD là nước
thu nhập trung bình-thấp; từ 4.036 - 12.475 USD là nước có thu nhập trung bình cao
và từ trên 12.476 USD là nước có thu nhập cao.
Căn cứ vào bốn chỉ tiêu này, các nước con nợ được phân thành bốn nhóm như
sau:
MIMICs: Các nước thu nhập trung bình mắc nợ vừa phải.
SIMICs: Các nước thu nhập trung bình mắc nợ nghiêm trọng.
MILICs: Các nước thu nhập thấp mắc nợ vừa phải.
- 8 -
SILICs: Các nước thu nhập thấp mắc nợ nghiêm trọng
Ta có thể tóm tắt bản chỉ tiêu như sau:
Bảng 1.1. Phân loại nợ
Nợ quá nhiều Nợ vừa phải Nợ ít
Nợ nước ngoài/GNI >50% 30-50% <30%
Nợ nước ngoài/Xuất khẩu >275% 165-275% <165%
Trả nợ nước ngoài/Xuất khẩu >30% 18-30% <18%
Trả lãi nước ngoài/Xuất khẩu >20% 12-20% <12%
Nguồn: P. Hjertholm (2001), Debt relief and the rule of thumb:Analytical History of HIPC Debt
Sustainability Targets, World Institude for Development Economics Research
1.1.2. Tăng trưởng kinh tế
1.1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc
độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng
được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay
chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện
vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNI và được
tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người. Bản chất của tăng
trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng
trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay việc đảm bảo chất lượng tăng
trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự
gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân
đầu người.
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện bằng hai cách:
Cách thứ nhất là sự tăng lên của: Tổng sản phẩm quốc dân (GNI); Sản phẩm
quốc dân ròng (NNP); Tổng sản phẩm quốc nội (GDP); Thu nhập quốc dân khả
dụng (NDI). Cách thứ nhất này đơn thuần chỉ thể hiện việc mở rộng sản lượng quốc
gia của một quốc gia.
- 9 -
Cách thứ hai là sự tăng lên theo đầu người của các chỉ tiêu trên – cụ thể là: Tổng
sản phẩm quốc dân trên đầu người (GNI/đầu người); Sản phẩm quốc dân ròng trên
đầu người (NNP/đầu người); Tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người (GDP/đầu
người); Thu nhập quốc dân khả dụng trên đầu người (NDI/đầu người). Cách thứ hai
này thể hiện sự tăng trưởng mức sống của một quốc gia. Bằng các chỉ tiêu này có
thể so sánh mức sống giữa các quốc gia khác nhau.
1.1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế
Sự tăng trưởng của nền kinh tế được biểu hiện bằng sự tăng thêm sản lượng
hàng năm do nền kinh tế tạo ra.
Thước đo của sự tăng trưởng kinh tế thường thể hiện bằng một số chỉ tiêu chủ
yếu như sau:
Một là, tổng thu nhập quốc dân (GNI)
Hiện nay Ngân hàng Thế giới sử dụng tổng thu nhập quốc dân GNI. Tổng thu
nhập quốc dân (GNI – trước đây là tổng sản phẩm quốc dân hay GNP) là thước đo
tổng hợp lớn nhất của thu nhập quốc dân, đo lường toàn bộ tổng giá trị gia tăng từ
các nguồn trong nước và nước ngoài do những người cư trú của nước đó tạo ra.
GNI bao gồm tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cộng với các khoản thu ròng từ thu
nhập ban đầu trong các nguồn phi cư trú.
Phương pháp Atlas Ngân Hàng Thế Giới: Tính toán GNI và GNI trên đầu người
theo đồng đôla Mỹ cho các mục đích nghiệp vụ nhất định. Ngân hàng Thế giới sử
dụng một hệ số chuyển đổi Atlas. Mục đích của hệ số chuyển đổi Atlas là làm giảm
ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái khi so sánh thu nhập quốc dân giữa các
nước. Hệ số chuyển đổi Atlas cho một năm bất kỳ là mức trung bình của tỷ giá hối
đoái của một nước (hay hệ số chuyển đổi khác) trong năm đó và tỷ giá hối đoái của
nước đó trong hai năm trước đó, hệ số này được điều chỉnh theo sự chênh lệch về tỷ
lệ lạm phát trong nước với các nước trong 5 nhóm nước (G-5) (Pháp, Đức, Nhật
Bản, Anh và Mỹ).
Công thức cách tính hệ số chuyển đổi Atlas cho năm t: