Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phân lập, xác định vai trò gây bệnh của Salmonella typhimurium và Salmonella enteritidis trên đàn vịt tại một số huyện thuộc tỉnh Hưng Yên và biện pháp phòng tr
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN VĂN THÀNH
PHÂN LẬP, XÁC ĐỊNH VAI TRÒ GÂY BỆNH CỦA
SALMONELLA TYPHIMURIUM VÀ SALMONELLA
ENTERITIDIS TRÊN ĐÀN VỊT TẠI MỘT SỐ HUYỆN THUỘC
TỈNH HƯNG YÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN VĂN THÀNH
PHÂN LẬP, XÁC ĐỊNH VAI TRÒ GÂY BỆNH CỦA
SALMONELLA TYPHIMURIUM VÀ SALMONELLA
ENTERITIDIS TRÊN ĐÀN VỊT TẠI MỘT SỐ HUYỆN THUỘC
TỈNH HƯNG YÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60.62.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. NGUYỄN QUANG TUYÊN
2. PGS.TS. TRẦN THỊ HẠNH
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế của nước ta đang phát triển cùng hội nhập kinh tế toàn cầu,
mức sống ngày càng được nâng cao. Do vậy, ngành chăn nuôi nước ta chiếm
một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu nền
kinh tế nói chung. Chăn nuôi với nhiều phương thức đã góp phần giải quyết
công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, tạo ra các sản phẩm có
giá trị xuất khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế, xã hội, nhất là khi nước ta vừa
gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì việc nâng cao chất lượng đàn
gia súc, gia cầm càng cần được đầu tư, chú trọng.
Mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển chăn nuôi của Việt Nam đến
năm 2010 cần đạt: đàn lợn 32,8 triệu con, sản lượng thịt lợn là 3,2 triệu tấn;
đàn bò thịt 7,1 triệu con, sản lượng thịt bò 210 ngàn tấn; đàn bò sữa 200 ngàn
con, sản lượng sữa 350 ngàn tấn; đàn gia cầm 283 triệu con, sản lượng thịt
1427 ngàn tấn và 7,95 tỷ quả trứng gà, vịt (Cục chăn nuôi, 2006)[3].
Để đạt được những mục tiêu trên cần phải đầu tư cho công tác giống,
quan tâm đến vấn đề thức ăn, các chương trình quản lý, đồng thời cũng phải
chú trọng hơn nữa công tác thú y, tăng cường áp dụng các biện pháp khoa học
kỹ thuật trong chẩn đoán làm cơ sở cho công tác phòng, chống dịch bệnh ở
vật nuôi có hiệu quả.
Vịt là loài thuỷ cầm có tính thích nghi cao với các điều kiện sinh thái,
thích hợp cho việc chăn thả ở những nơi có nguồn nước để tìm kiếm thuỷ
động vật và thóc lúa rơi vãi sau thu hoạch. Những năm gần đây, chăn nuôi vịt
thịt phát triển mạnh, tuy nhiên, điều kiện nuôi vịt cần có nước là môi trường
rất thuận lợi cho việc phát triển bệnh do vi khuẩn gây ra, trong đó Salmonella
có vai trò quan trọng về dịch tễ, là một hạn chế đáng kể trong việc phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
mạnh giống gia cầm này. Hầu hết các sản phẩm chăn nuôi vịt đều bị vấy
nhiễm Salmonella ở các mức độ khác nhau.
Nhiều kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước đã kết luận Salmonellosis
là bệnh chung của nhiều loài vật nuôi và gây bệnh cho cả con người. Nhằm
đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, tiêu chuẩn qui định đối với Salmonella
là không được có bất kỳ 1 type Salmonella nào trong 25 gam sản phẩm được
thực hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tiêu chuẩn này
cũng được quy định trong TCVN 7046-2002[49]. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề
an toàn vệ sinh thực phẩm, trong đó có gia cầm và thịt gia cầm sạch bệnh nhất
là sạch Salmonella là một yêu cầu cấp thiết.
Vi khuẩn Salmonella đã được nghiên cứu từ nhiều năm nay, trong
những năm gần đây chúng được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều bởi sự
gia tăng của các bệnh ngộ độc thực phẩm ở người mà nguyên nhân chủ yếu là
do độc tố của chúng gây ra. Việc nghiên cứu vi khuẩn Salmonella, tỷ lệ
nhiễm, vai trò gây bệnh của chúng… đối với đàn gia cầm tại tỉnh Hưng Yên
là việc làm cần thiết, để từ đó có cơ sở xây dựng biện pháp phòng, chống
bệnh đạt hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy chăn nuôi gia cầm nói chung, chăn
nuôi vịt nói riêng phát triển bền vững, tạo ra sản phẩm an toàn vệ sinh thực
phẩm, có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Ở nước ta cho tới nay những
nghiên cứu về Salmonella nói chung và đặc biệt là 2 loài Salmonella
typhimurium (S. typhimurium) và Salmonella enteritidis (S. enteritidis) gây
ngộ độc thực phẩm chủ yếu ở người còn ít được quan tâm.
Tại Hưng Yên chăn nuôi vịt trong những năm gần đây vẫn được duy trì
và phát triển trong các hộ gia đình và trang trại góp phần tăng thu nhập kinh
tế cho các nông hộ. Tuy nhiên, ngoài một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
như cúm gia cầm, viêm gan... thì đàn thủy cầm nuôi tại Hưng Yên còn bị tổn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
thất nhiều do nhiễm bệnh Salmonellosis. Để có cơ sở trong việc nghiên cứu
và xây dựng những biện pháp phòng và trị Salmonellosis ở đàn vịt cho hiệu
quả cao tại Hưng Yên, chúng tôi đã phân lập, xác định Serotype và kiểm tra
động lực của các chủng vi khuẩn Salmonella gây bệnh phân lập được.
Xuất phát từ những vấn đề trên, được sự đồng ý của tập thể thầy cô
giáo hướng dẫn và cơ sở nghiên cứu chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Phân lập, xác định vai trò gây bệnh của Salmonella typhimurium và
Salmonella enteritidis trên đàn vịt tại một số huyện thuộc tỉnh Hưng Yên và
biện pháp phòng trị”.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Xác định đặc tính sinh vật, hoá học và đặc tính gây bệnh của vi khuẩn
S. typhimurium và S. enteritidis trên vịt tại một số huyện thuộc tỉnh Hưng Yên.
Xác định một số yếu tố gây bệnh của vi khuẩn Salmonella phân lập được.
Kiểm tra độc lực, độc tố, khả năng bám dính… của các chủng Salmonella
phân lập được.
Đề xuất biện pháp phòng trị thích hợp.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu tập trung về 2 chủng Salmonella trên đàn
vịt tại một số huyện thuộc tỉnh Hưng Yên. Bước đầu đã xác định một số đặc
tính của Salmonella. Xác định được nhóm kháng nguyên, định type vi khuẩn
phân lập được và xây dựng biện pháp phòng chống bệnh do Salmonella gây ra
ở vịt.
Kết quả nghiên cứu của đề tài bổ sung thêm nguồn tư liệu cho những
nghiên cứu về Salmonella trên vịt nói riêng và Salmonella trên gia cầm nói
chung của Việt Nam và thế giới.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở để xây dựng chương trình phòng bệnh tổng
hợp để từng bước giám sát và khống chế bệnh do Salmonella gây ra trên vịt
cũng như góp phần bảo vệ sức khoẻ vật nuôi và cộng đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy ở vịt và vi khuẩn Salmonella
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về vai trò gây bệnh của S. typhimurium và
S. enteritidis trên vịt
Salmonella là một thành viên của họ vi khuẩn đường ruột
Enterobacteriaceae, giống vi khuẩn này được gọi tên của bác sỹ Thú y Daniel
E. Salmon và Smith, để kỉ niệm người đầu tiên tìm ra. Kể từ năm 1985 sau
khi Daniel E. Salmon và Smith phân lập được vi khuẩn Salmonella đến nay
người ta tìm thấy trên 2100 chủng (serova) khác nhau của loài vi khuẩn này.
Vi khuẩn Salmonella là trực khuẩn Gram âm,hai đầu tròn, không hình
thành nha bào. S. typhimurium và S. enteritidis gây bệnh cho gia cầm.
Nghiên cứu thực hiện ở học viện Metnhicốp (1956 - 1958) đã cho thấy
trong 156 mẫu Salmonella phân lập được từ gia cầm (trong đó có vịt) có 96/156
(52,9%) là do S. typhimurium (Trần Xuân Hạnh và cs, 1998)[18].
Ở Long An, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, cho thấy:
8,8% vịt đẻ, 24,7% vịt con, 31,7% phôi trứng bị chết và 64,8% cứt xu đã bị
nhiễm Salmonella (Trần Xuân Hạnh và cs, 1998[18]).
Ở Inđônêsia, năm 1992 - 1993, đã xác định 26 mẫu huyết thanh vịt,
trong đó S. tyhimurium là 24%, S. amsterdam là 10,5%, S. virchov là 7,5% và
S. thompson là 6,8% (Trần Thị Hạnh và cs, 2002)[15].
Đối với tất cả các loài gia cầm, Salmonellosis thể hiện các thể bệnh như
nhiễm trùng, nhiễm trùng không xuất hiện triệu chứng, không bệnh tích trở
thành những con vật khoẻ mang trùng, chúng suốt đời bài tiết thường xuyên
hoặc gián đoạn Salmonella ra môi trường hoặc dưới thể bệnh với những triệu
chứng khi nở hoặc chết ngay khi mới nở. Các vịt con bị xù lông, sợ rét,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
cuộn mình dưới chụp sưởi, khát nước và chết do mất nước. Đôi khi biểu
hiện viêm khớp, viêm rốn, đặc biệt khi nhiễm S. typhimurium. Trong một số
trường hợp biểu hiện triệu chứng tiêu hoá như ỉa lỏng nước trắng hoặc xanh,
có vết máu, tỷ lệ chết có thể tới 70%. Trong thể cấp tính, bệnh kéo dài 3 hoặc
4 ngày và không có triệu chứng điển hình nào. Ở vịt đẻ, thể cấp tính đặc trưng
bằng những triệu chứng như ủ rũ, sốt, manh tràng xanh sẫm. Thể mãn tính
trước hết biểu hiện ở triệu chứng sinh sản như chậm đẻ, giảm tỷ lệ đẻ, viêm
buồng trứng - vòi trứng và trứng không có vỏ. Ở vịt con, những tổn thương
viêm ống tiêu hoá, gan và màng ngoài tim thể hiện khá rõ hội chứng phó
thương hàn (PTH). Tuy nhiên, ở vịt đẻ những thể hiện tổn thương trên ít rõ
ràng hơn.
Vịt có thể là nơi cư trú của những type Salmonalla khác nhau phân bố
rộng rãi, đặc biệt là S. enteritidis, S. saintpaul, S. typhimurium, S. montevideo,
S. panama… Ở Pháp, vào những năm 1994-1995 đã thấy 27 type huyết thanh
khác nhau ở vịt. Tại Việt Nam, 14 type huyết thanh đã được xác định ở cứt su
và phân vịt tại các tỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Long An.
Trong những type huyết thanh chiếm ưu thế là S. typhimurium, S. senftenberg,
S. amsterdam, S. takssony… (Trần Xuân Hạnh và cs, 1998[18]).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn Salmonella
1.1.2.1. Nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu, phát hiện Salmonella và bệnh do chúng gây ra, cùng với
các bệnh dịch tả, lao, nhiệt thán, thương hàn thuộc những dịch bệnh đã được
bắt đầu nghiên cứu cách đây trên 120 năm trong lĩnh vực vi sinh vật y học.
Năm 1880 E berth lần đầu tiên quan sát thấy vi khuẩn dưới kính hiển vi. Sau
đó 4 năm, năm 1884 Gaffky đã nuôi cấy thành công vi khuẩn. Loài vi khuẩn
S. typhi lúc đầu được gọi với các tên như Bacillus typhous, Bacterium typhi và
Eberthella typhy typhosa. Còn tên giống Salmonella được Lignires sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
đặt cho trực khuẩn gây bệnh dịch tả “Hog-cholera bacillus” vào năm 1900
(Selbitz và cs, 1995)[74].
Tên của loài vi khuẩn quen thuộc đối với chúng ta ngày nay là S. cholerae
suis, lần đầu xuất hiện trong báo cáo năm của phòng Chăn nuôi Công nghiệp
Mỹ năm 1885 với sự nhìn nhận nhầm lẫn cho là tác nhân gây bệnh dịch tả lợn
(Barnes D.M và Sorensen K.D, 1975)[51]. D.E. Salmon lúc bấy giờ là trưởng
phòng nghiên cứu, vì vậy mà tên ông được lấy để đặt tên cho vi khuẩn mới
này. Song người chính thức phát hiện ra loài vi khuẩn Salmonella lại là
T. Smith, một cộng sự của ông.
Những năm tiếp theo, các nhà khoa học tiếp tục phân lập được vi khuẩn
này gây bệnh ở người, tìm thấy vi khuẩn trong thịt bò, trong chuột bạch…
Năm 1988, A.Gartner ở Jena (Đức) đã xác định được nguyên nhân gây
viêm ruột người do ăn phải thịt bò chết ở Frankenhausen (Đức) là vi khuẩn,
lúc đó được gọi là Bacillus enteritidis (nay là S.enteritidis); căn cứ vào tên
người phát hiện ra vi khuẩn, cũng như nơi mà vi khuẩn gây bệnh; trong một
khoảng thời gian dài loài vi khuẩn S. enteritidis được gọi là trực khuẩn
Gartner với các tên khác nhau như Gartner - bacillus hoặc Typus Gartner
Jena. Năm 1889 và 1890 tại Viện vệ sinh trường Đại học Greiswald (Đức) do
F.Loeffler phụ trách đã xảy ra dịch bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng đối với
chuột thí nghiệm. Nguyên nhân do loài vi khuẩn lúc đó được gọi tên là
Bacillus typhimurium. Năm 1891, C.O Jensen đã tách được S. dublin từ bệnh
phẩm của bê bị bệnh tiêu chảy. Cùng năm đó loài S. typhimurium được phát
hiện ở Greiswald và Breslau. Năm 1900, tên giống Salmonella được Lignieres
sử dụng đặt cho trực khuẩn gây bệnh dịch tả “Hogcholera bacillus”. Lúc đầu
tất cả các bệnh ở gia súc do Salmonella gây ra được gọi chung một tên là
bệnh PTH “Paratyphus”. Cho đến năm 1914 có tổng cộng 12 loài vi khuẩn
được mô tả và xếp vào giống Salmonella. Trong những năm 30 (thế kỷ XX)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
số lượng loài Salmonella đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1926, White đã có
những công trình nghiên cứu về cấu trúc kháng nguyên của Salmonella, bắt
đầu một thời kỳ khoa học mới về giống vi khuẩn này. F.Kauffmann tiếp tục
thành công trong những nghiên cứu sau đó và đã thiết lập được bảng kháng
nguyên đầu tiên vào năm 1934, làm nền tảng cho việc tra cứu. Bảng kháng
nguyên vi khuẩn Salmonella được gọi tên là bảng phân loại Kauffmann -
White đã thường xuyên được Trung tâm hợp tác của WHO về nghiên cứu
Salmonella tại Viện Pasteur - Pari bổ sung và công nhận. Cùng năm đó, hai
nhà bác học đã thiết lập được bảng cấu trúc kháng nguyên đầu tiên đặt tên là
bảng phân loại Kauffmann-White. Từ đó đến nay, bảng cấu trúc kháng
nguyên của Salmonella luôn luôn được bổ sung. Năm 1993 đã có 2375 type
Salmonella được định danh. Đến năm 1997 con số type Salmonella đã lên đến
3000. Năm 1998 lại có thêm 6 type khác được bổ sung. Như vậy giống
Salmonella luôn luôn thu hút sự chú ý của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực
Vi sinh vật và Y học (Selbitz và cs, 1995)[74].
Năm 1934, theo đề nghị của hội nghị các nhà sinh vật học quốc tế, để
kỷ niệm người đầu tiên tìm ra vi khuẩn là Salmon, tên chính thức của loài vi
khuẩn này được đặt là Salmonella (Nguyễn Như Thanh, 2001)[42].
Vi khuẩn Salmonella được tìm thấy ở tất cả các nước trên khắp thế giới
ở trong động vật khoẻ cũng như động vật ốm.
Năm 1972, tại nước Anh đã tìm thấy vi khuẩn Salmonella có trong
phân lợn là 9,9% số mẫu kiểm tra; năm 1973, tiếp tục phát hiện Salmonella
trong hạch ruột lợn ốm là 7,3%. Tại Mỹ, năm 1984 đã xét nghiệm thấy
Salmonella trong máu lợn chết là 4,3%. Năm 1989, Hungari công bố tỷ lệ
mẫu phân lợn có Salmonella tới 48% (Wilcock và Schwartz, 1992) [80].
Việc nghiên cứu chi tiết từng loài Salmonella gây bệnh cho từng loại
vật nuôi cũng đã được nhiều tác giả thông báo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
Barnes và Sorensen (1975)[51]; Wilcock và Schwartz (1992)[80];
Selbitz và cs, (1995)[74]; Laval A (2000)[23] đều cho biết bệnh Phó thương
hàn cấp tính ở lợn con do S. cholerae suis var kunzendorf gây ra; bệnh viêm ruột
mãn tính do S. typhimurium. Gây bệnh chủ yếu ở trâu, bò là S. dublin, S. enteritidis.
Các loài S. abortus ovis, S. montevideo, S. dublin, S. anatum gây bệnh ở cừu.
S. abortus equi là tác nhân chính gây bệnh cho ngựa. Còn ở gia cầm và chim
chủ yếu do S. pullorum-.gallinarum, S. typhimurium, S. enteritidis gây ra.
Tại Mỹ rất nhiều công trình nghiên cứu về các chủng Salmonella gây
bệnh cho gia cầm đã được công bố. Williams và cs, (1976)[82] đã nghiên cứu
các biện pháp chẩn đoán phát hiện S. typhimurium ở gia cầm.
Tại các nước Đông Nam Á, Bela Toth (1985)[47] một chuyên gia thú y
của FAO đã dành nhiều năm nghiên cứu về bệnh của vịt cho biết bệnh do
Salmonella gây trên vịt xảy ra ở hầu khắp thế giới và tỷ lệ thay đổi từ 1 -
60%. Trong một ổ dịch thường thấy vịt chết ngay từ những ngày đầu sau khi
đưa ra khỏi lò ấp, vịt ở mọi lứa tuổi đều mẫn cảm với bệnh, tuy nhiên triệu
chứng lâm sàng thường chỉ thấy ở vịt con. Đã có những nghiên cứu về
các chủng Salmonella gây bệnh trên vịt, một số tác giả đã phân lập được
S. typhimurium từ một số ổ dịch tự nhiên xảy ra trên vịt con và vịt đẻ. Tuy
nhiên, các tác giả cũng nhận thấy rằng vịt có sức đề kháng với Salmonella
cao hơn so với gà. S. typhimurium và S. enteritidis đựơc coi là nguyên nhân
chủ yếu gây bệnh cho vịt. Tại Thái Lan, đã phân lập được S. typhimurium từ
các ổ dịch tự nhiên xảy ra trên vịt.
Vai trò gây bệnh của Salmonella đối với gia cầm được đề cập từ đầu
thế kỷ XX, tuy nhiên triệu chứng bệnh đã được mô tả sớm hơn nhiều. Vào
năm 1888 một vụ dịch xảy ra ở Anh tại một cơ sở chăn nuôi gà công nghiệp
đã gây chết 400 con. Lúc bấy giờ người ta nghi đây là bệnh dịch tả gà, ngay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
sau đó Klein phân lập được căn bệnh và đặt tên là Bacillus gallinarum. Một
vài năm sau Lucet ở Pháp, Pfeiler và Rhese ở Đức cũng mô tả căn bệnh tương
tự. Cho đến năm 1892, Loeff đã gọi Bacterium typhimurium là vi trùng gây
bệnh chủ yếu của bệnh thương hàn ở gia cầm. Từ năm 1933 đến năm 1956 tại
Anh đã có rất nhiều tác giả để tâm nghiên cứu về bệnh này. Hầu hết các loài
gia cầm như gà, gà tây, vịt, ngan, ngỗng và bồ câu đều bị nhiễm Salmonella ở
mọi lứa tuổi, tỷ lệ nhiễm thay đổi từ 1 - 9,8% (Nagaraja và cs, 1991)[66].
Nhờ có sự tiến bộ của khoa học như kính hiển vi điện tử, công nghệ gen...
Việc nghiên cứu vi khuẩn Salmonella liên tục được các nhà khoa học trên thế
giới bổ sung, định danh, phân loại. Bảng phân loại của Kauffmann - White bổ
sung đến 1993 đã có 2375 type được định danh. Còn cho biết bộ gene “genom”
của Salmonella được nghiên cứu tương đối kỹ. Cho đến nay ít nhất đã chứng
minh được 750 gene, trong đó có 680 gene đã có trong bản đồ gene (Selbitz và
cs, 1995)[74]. Năm 1997, số type đã lên đến 3000 (Plonait và Birkhardt,
1997)[69]. Năm 1998, lại thêm 14 type Salmonella được công nhận và bổ sung
các đặc tính.
Như vậy, trong ngành vi sinh vật, vi khuẩn Salmonella đã gây được sự chú
ý cao và có nhiều nghiên cứu cơ bản với mục tiêu tìm ra những biện pháp có hiệu
quả để ngăn chặn và đẩy lùi bệnh do Salmonella gây ra ở động vật và người.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu vi khuẩn Salmonella ở trong nước
Salmonellosis là bệnh truyền lây giữa người và động vật. Vi khuẩn
sống hoại sinh trong đường tiêu hoá, khi sức đề kháng của con vật giảm sút,
Salmonella sẽ xâm nhập và gây bệnh. Chính vì lẽ đó mà Salmonella và bệnh
do Salmonella gây nên đã được nghiên cứu trên nhiều loài vật nuôi.
Ngay từ những năm 1951 - 1953, viện Pasteur Sài Gòn đã phân lập
được 6 type Salmonella ở người và 35 type Salmonella ở lợn tại lò sát sinh.
Năm 1963, Viện vệ sinh dịch tễ Hà Nội kiểm tra và phát hiện 6,3% mẫu