Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

ÔN THI CÔNG CHỨC THUẾ: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuyên đề 16
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
A. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH
TẾ
1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN VIỆT NAM
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền kinh tế mà trong đó, sự vận hành
của nó vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của bản thân hệ thống kinh tế thị
trường, lại vừa bị chi phối bởi những nguyên tắc và những quy luật phản ánh bản
chất xã hội hoá-xã hội chủ nghĩa. Do đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
vừa mang tính chất chung, phổ biến đó là “tính kinh tế thị trường” vừa mang tính đặc
thù đó là “tính định huớng XHCN”.
1- Kinh tế thị trường:
1.1. Đặc trưng của kinh tế thị trường
a- Khái niệm kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó thị trường
quyết định về sản xuất và phân phối.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế, mà trong đó, cá nhân người tiêu
dùng và các nhà sản xuất-kinh doanh tác động lẫn nhau thông qua thị trường để xác
định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?
sản xuất cho ai? Trong nền kinh tế thị trường, thị trường quyết định phân phối tài
nguyên cho nền sản xuất xã hội.
b- Đặc trưng của kinh tế thị trường.
- Một là, quá trình lưu thông những sản phẩm vật chất và phi vật chất từ sản xuất
đến tiêu dùng phải được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua-bán.
Sở dĩ có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có sự phân công chuyên
môn hoá trong việc sản xuất ra sản phẩm xã hội ngày càng cao, cho nên sản phẩm
trước khi trở thành hữu ích trong đời sống xã hội cần được gia công qua nhiều khâu
chuyển tiếp nhau. Bên cạnh đó, có những người, có những doanh nghiệp, có những
ngành, những vùng sản xuất dư thừa sản phẩm này nhưng lại thiếu những sản phẩm
khác, do đó giữa chúng cũng cần có sự trao đổi cho nhau.
Sự luân chuyển vật chất trong quá trình sản xuất có thể được thực hiện bằng nhiều
cách: Luân chuyển nội bộ, luân chuyển qua mua-bán. Trong nền kinh tế thị trường,
sản phẩm được sản xuất ra chủ yếu để trao đổi thông qua thị trường.
- Hai là: Người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao
đổi trên thị trường ở ba mặt sau đây:
+ Tự do lựa chọn nội dung sản xuất và trao đổi
+ Từ do chọn đối tác trao đổi
+ Tự do thoả thuận giá cả trao đổi
+ Tự do cạnh tranh
- Ba là: Hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên rộng khắp, trên cơ sở
một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua-bán diễn ra được thuận lợi, an toàn với
một hệ thống thị trường ngày càng đầy đủ.
- Bốn là: Các đối tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích
của mình. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế.
- Năm là: Tự do cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị trường, là động lực thúc
đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ,
có lợi cho cả người sản xuất và ngjười tiêu dùng.
- Sáu là: Sự vận động của các quy luật khách quan của thị trường dẫn dắt hành vi,
thái độ ứng xử của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, nhờ đó hình thành một trật
tự nhất định của thị trường từ sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng.
Một nền kinh tế có được những đặc trưng cơ bản trên đây được gọi là nền kinh tế
thị trường. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trong từng
quốc gia và sự hội nhập kinh tế mang tính toàn cầu đã tạo điều kiện và khả năng vô
cùng to lớn để phát triển nền kinh tế thị trường đặt đến trình độ cao-kinh tế thị trường
hiện đại.
Kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế có đầy đủ các đặc trưng của một nền
kinh tế thị trường, đồng thời nó còn có các đặc trưng sau đây:
- Một là, có sự thống nhất mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị-xã hội.
- Hai là, có sự quản lý của Nhà nước, đặc trưng này mới hình thành ở các nền kinh
tế thị trường trong vài thập kỷ gần đây, do nhu cầu không chỉ của Nhà nước-đại diện
cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, mà còn do nhu cầu của chính các thành viên,
những người tham gia kinh tế thị trường.
- Ba là, có sự chi phối mạnh mẽ của phân công và hợp tác quốc tế, tạo ra một nền
kinh tế thị trường mang tính quốc tế. vượt ra khỏi biên giới quốc gia động và mở,
tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
giữa các quốc gia đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm
cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên một chính thể thống nhất, trong đó mỗi
quốc gia là một bộ phận gắn bó hữu cơ với các bộ phận khác.
1.2. Các loại kinh tế thị trường:
Tuỳ theo cách tiếp cận, người ta có thể phân loại kinh tế thị trường theo các tiêu
chí khác nhau:
- Theo trình độ phát triển, có:
+ Nền kinh tế hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp
+ Nền kinh tế thị trường hiện đại
- Theo hình thức hàng hóa, có:
+ Nền kinh tế thị trường với hàng hoá truyền thống: Thị trường lương thực, sắt
thép, xăng dầu…
+ Nền kinh tế thị trường với hàng hoá hiện đại: Thị trường vốn, thị trường sức lao
động, thị trường công nghệ…
- Theo mức độ tự do, có:
+ Nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh
+ Nền kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước
+ Nền kinh tế thị trường hỗn hợp: Kết hợp sự điều tiết của Nhà nước với điều tiết
của “Bàn tay vô hình” là cơ chế thị trường
- Theo mức độ nhân văn, nhân đạo của nền kinh tế
+ Nền kinh tế thị trường thuần tuý kinh tế
+ Nền kinh tế thị trường xã hội
1.3. Điều kiện ra đời của nền kinh tế thị trường
a.- Phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá các hoạt động sản xuất sản phẩm
hoặc dịch vụ theo ngành hoặc theolãnh thổ. Do phâncông lao động xã hội nên dẫn đến
tình trạng vừa thiếu vừa thừa sản phẩm xét trong phạm vi ở một nước và giữa các
nước cần có sự trao đổi để cân bằng.
b- Sự xuất hiện tư hữu về tư liệu sản xuát.
1.4. Những ưu thế và khuyết tật cơ bản của nền kinh tế thị trường
a- Những ưu thế:
- Tự động đáp ứng nhu cầu, có thể thanh toán được của xã hội một cách linh hoạt
và hợp lý
- Có khả năng huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội
- Tạo ra động lực mạnh để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả
cao và thông qua phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém.
- Phản ứng nhanh, nhạy trước các thay đổi của nhu cầu xã hội và các điều kiện
kinh tế trong nước và thế giới.
- Buộc cácdoanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai lầm
trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên các quy mô lớn.
- Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ-kỹ
thuật, nền kinh tế năng động và đạt hiệu quả cao.
b- Những khuyết tật:
- Động lực lợi nhuận tạo ra môi trường thuận lợi dẫn đến nguy cơ vi phạm pháp
luật, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh thần.
- Sự cạnh tranh không tổ chức dẫn đến mất cân đối vĩ mô, lạm phát, thất nghiệp,
sự phát triển có tính chu kỳ của nền kinh tế.
- Sự cạnh tranh dẫn đến độc quyền làm hạn chế nghiêm trọng các ưu điểm của
kinh tế thị trường.
- Tạo ra sự bất bình đẳng, phân hoá giàu nghèo
- Lợi ích chung dài hạn của xã hội không được chăm lo
- Mang theo các tệ nạn như buôn gian bán lậu, tham nhũng
- Tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá một cách có hệ thống, nghiêm
trọng và lan rộng.
- Sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế.
2- Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có các đặcc trưng sau đây:
2.1- Về hệ thống mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế-xã hội quy định quá trình phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta là quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội tổng quát “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” cụ thể là:
a-Về mục tiêu kinh tế-xã hội-văn hoá
- Làm cho dân giàu, mà nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân đóng góp
GDP/đầu người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu nghèo trong xã
hội ta ngày càng được thu hẹp.
- Làm cho nước mạnh thể hiện ở mức đóng góp to lớn vào ngân sách quốc gia, ở sự
gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn, ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài
nguyên quốc gia, ở sự bảo vệ môi sinh, môi trường, tạo mọi điều kiện cho khoa học, công
nghệ phát triển, ở khả năng thích ứng của nền kinh tế trong mọi tình huống bất trắc.
- Làm cho xã hội công bằng, văn minh thể hiện ở cách xử lý các quan hệ lợi ích ngay
trong nội bộ kinh tế thị trường đó, ở việc góp phần to lớn vào việc giải quyết các vấn đề
xã hội, ở việc cung ứng các hàng hoá và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tề mà còn có
giá trị cao về văn hoá.
b- Về mục tiêu chính trị
Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hoá nền kinh tế, mọi nguời, mọi
thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất-kinh doanh, có
quyền sở hữu về tài sản của mình: quyền của người sản xuất và tiêudùng được bảo về
trên cơ sở pháp luật của Nhà nước.
2.2. Về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có cấu trúc từ nhiều loại hình,
hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân. Trong đó: chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng
bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ
bản “ (Văn kiện Đại hôị IX của Đảng, tr 96). “Từ các hinh thức sở hữu đó hình thành nên
nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn
hợp. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân “(Văn kiện Đại học IX
của Đảng, tr 87).
2.3. Về cơ chế vận hành kinh tế
Cơ chế vận hành nền kinh tế trước hết phải là cơ chế thị trường để đảm bảo phân bổ
hợp lý các lợi ích và nguồn lực, kích thích phát triển các tiềm năng kinh doanh và các lực
lượng sản xuất, tăng hiệu quả và tăng năng suất lao động xã hội. Đồng thời, không thể
phủ nhận vai trò của Nhà nước XHCN-đại diện lợi ích chính đáng của nhân dân lao động
và xã hội thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với kinh tế thị trường trên cơ sở học tập, vận
dụng kinh nghiệm có chọn lọc cách quản lý kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa, điều
chỉnh cơ chế kinh tế. giáo dục đạo đức kinh doanh phù hợp; thống nhất điều hành, điều
tiết và hướng dẫn sự vận hành nền kinh tế cả nước theo đúng mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội.
2.4. Về hình thức phân phối.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức phân phối đan
xen, vừa thực hiện theo nguyên tấc phân phối của kinh tế thị trường và nguyên tắc phân
phối của CNXH. Trong đó, các ưu tiên phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng
và hiệu quả, đồng thời bảo đảm sự phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội.
điều này vừa khác với phân phối theo tư bản của kinh tế thị trường thông thường, lại vừa
khác với phân phối theo lao động mang tính bình quân trong CNXH cũ.
2.5- Về nguyên tắc giải quyết các mặt, các mối quan hệ chủ yếu:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng lực lượng sản xuất, xây dựng lực
lượng sản xuất mới kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất, quan hệ quản lý
tiên tiến của nền kinh tế thị trường nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp
hoá-hiện đại hoá, đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng nước cải thiện và nâng cao
đời sống nhân dân, giải quyết với các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, việc làm, nghèo
đói, vấn đề bảo đảm y tế và giáo dục, vấn đề ngăn chặn các tệ nạn xã hội; đóng góp giải
quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, môi trường tạo sự phát triển bền vững.
2.6. Về tính cộng đồng, tính dân tộc:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của
xã hội Việt Nam, phát triển có sự tham gia của cộng đồng và có lợi ích của cộng đồng,
gắn bó máu thìt với cộng đồng trên cơ sở hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích của cộng
đồng, chăm lo sự làm giàu không chỉ chú trọng cho một số ít người mà cho cả cộng đồng,
hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh
thần, công bằng, dân chủ, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi
người.
2.7. Về quan hệ quốc tế
Kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong
nước và triệt để tranh thủ nguồn lực ngoài nước theo phương châm “Kết hợp sức mạnh
của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng chúng một cách hợp lý-đạt hiệu quả
cao nhất, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
II- Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế thị
trường có điều tiết-nền kinh tế thị trưuờng có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, nền kinh tế nước ta chịu sự điều tiết của thị
trường và chịu sự điều tiết của nhà nước (sự quản lý của Nhà nước). Sự quản lý nhà nước
đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự cần
thiết khách quan, vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, phải khắc phục những hạn chế của việc điều tiết của thị trường, bảo đảm
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra.
Sự điều tiết của thị trường đối với sự phát triển kinh tế thật kỳ diệu nhưng vẫn có
những hạn chế cục bộ. Ví dụ như về mặt phát triển hài hoà của xã hội, thì bộc lộ tính hạn
chế sự điều tiết của thị trường.
Thị trường không phải là nơi có thể đạt được sự hài hoà trong việc phân phối thu nhập
xã hội, trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội, trong việc phát triển kinh tế xã
hội giữa các vùng… Cùng với việc đó, thị trường cũng không khắc phục những khuyết
tật của nền kinh tế thị trường, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã nêu ở trên. Tất
cả điều đó không phù hợp và cản trờ việc thực hiện đầy đủ những mục tiêu phát triển
kinh tế-xã hội đã đề ra. Cho nên trong quá trình vận hành kinh tế, sự quản lý nhà nước
đối với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết để khắc phục
những hạn chế, bổ sung chỗ hổng của sự điều tiết của trhị trường, đảm bảo mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội. Đó cũng là thực hiện nhiệm vụ hàng đầu của quàn lý nhà nước về
kinh tế.
Thứ hai: Bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh kinh tế của mình. Nhà nước phải
giải quyết những mâu thuẫn lợi ích kinh tế phố biến, thường xuyên và cơ bản trong nền
kinh tế quốc dân.
Trong quá trình hoạt động kinh tế, con người có mối quan hệ với nhau. Lợi ích kinh tế
là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đó. Mọi thứ mà con người phấn đấu đền liên quan
đến lợi ích của mình. Trong nền kinh tế thị trường, mọi đối tác đều hướng tới lợi ích kinh
tế riêng của mình. Nhưng, khối lượng kinh tế thì có hạn và không thể chia đều cho mọi
người, nếu xẩy ra sự tranh giành về lợi ích và từ đó phát sinh ra những mâu thuẫn về lợi
ích. Trong nền kinh tế thị trường có những loại mâu thuẫn cơ bản sau đây:
- Mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp với nhau trên thương trường.
- Mâu thuẫn giữa chủ và thợ trong các doanh nghiệp
- Mâu thuẫn giữa người sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng trong việc sử
dụng tài nguyên và môi trường, không tính đến lợi ích chung trong việc họ cung ứng
những hàng hoá và dịch vụ kém chất lượng, đe doạ sức khoẻ cộng đồng: trong việc xâm
hại trật tự, an toàn xã hội, đe doạ an ninh quốc gia vì hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình.
- Ngoài ra, còn nhiều mâu thuẫn khác nữa như mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa cá
nhân; công dân với Nhà nước, giữa các địa phương với nhau, giữa các ngành, các cấp với
nhau trong quá trình hoạt động kinh tế của đất nước.
- Những mâu thuẫn này có tính phổ biến, thường xuyên và có tính căn bản vì liên
quan đến quyền lợi “về sống-chết của con người”. đến sự ổn định kinh tế-xã hội. Chỉ có
nhà nước mới có thể giải quyết được các mâu thuãn đó, điều hoà lợi ích của các bên.
- Thứ ba, tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế
Để thực hiện bất kỳ một hoạt động nào cũng phải giải đáp các câu hỏi: Có muốn làm
không? Có biết làm không? Có phương tiện để thực hiện không? Có hoàn cảnh để làm
không? Nghĩa là, cần có những điều kiện chủ quan và khách quan tương ứng. Nói cụ thể
và để hiểu, làm kinh tế nhất là làm giầu phải có ít nhất các điều kiên: ý chí làm giàu, trí
thức làm giàu, phương tiện sản xuất kinh doanh và môi trường kinh doanh. Không phải
công dân nào cũng có đủ các điều kiện trên để tiến hành làm kinh tế, làm giàu. Sự can
thiệp của nhà nước rất cần thiết trong việc hỗ trợ công dân có những điều kiệncần thiết
thực hiện sự nghiệp kinh tế.
Thứ tư, tính giai cấp trong kinh tế và bản chất giai cấp của nhà nước
Nhà nước hình thành từ khi xã hội có giai cấp. Nhà nước bao giừ cũng đại diện lợi ích
của giai cấp thống trị nhất định trong đó có lợi ích kinh tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đại diện cho lợi ích dân tộc và nhân dân, Nhà nước của ta là nhà nước của dân,
do dân và vì dân. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước ta xác định và quản lý
chỉ đạo là nhằm cuối cùng đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tuy vây,
trong nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với nước ngoài, không phải lúc nào lợi ích
kinh tế của các bên cũng luôn luôn nhất trí. Vì vậy, xuất hiện xu hướng vừa hợp tác, vừa
đấu tranh trong quá trình hoạt động kinh tế trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý,
quan hệ phân phối.
Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế. Nhà nước ta phải thể hiện bản chất giai
cấp của mình để bảo vệ lợi ích của dân tộc và của nhân dân ta. Chỉ có Nhà nước mới có
thể làm được điều đó. Như vậy là, trong quá trình phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã thể
hiện bản chất giai cấp của mình.
Bốn lý do chủ yếu trên đây chính là sự cần thiết khách quan của Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
III- CÁC CHỨC NĂNG QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
1- Định hướng sự phát triển của nền kinh tế
1.1 Khái niệm:
Định hướng sự phát triển kinh tế là xác định con đường và hướng sự vận động của
nền kinh tế nhằm đạt đến một đích nhất định (gọi là mục tiêu) căn cứ vào đặc điểm kinh
tế, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ nhất định (cách đi, bước đi cụ thể, trình tự thời
gian cho từng bước đi để đạt được mục tiêu)
1.2- Sự cần thiết khách quan của chức năng định hướng phát triển nền kinh tế.
Sự vận hành của nền kinh tế thị trường mang tính tự phát về tính không xác định rất
lớn. Do đó Nhà nước phải thực hiện chức năng, định hướng phát triển nền kinh tế của
mình. Điều này không chỉ cần thiết đối với sự phát triển kinh tế chung mà còn cần thiết
cho việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều này sẽ tạo cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh dự đoán được sự biến đổi của thị trường, từ đó nắm lấy cơ hội trong sản
xuất kinh doanh cũng như lường trước những bất lợi có thể xẩy ra, hạn chế những bất lợi
có thể xẩy ra trong cơ chế thị trường, khắc phục những ngành phát triển tự phát không
phù hợp với lợi ích xã hội, đẩy mạnh những ngành mũi nhọn.
1.3. Phạm vi định hướng phát triển nền kinh tế bao gồm:
- Toàn bộ nền kinh tế
- Các ngành kinh tế
- Các vùng kinh tế
- Các thành phần kinh tế
Nhà nước không có chức năng định hướng phát triển cho từng doanh nghiệp ngoài
nhà nước mà căn cứ vào định hướng phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp tự xác
định hướng phát triển của mình.
1.4. Nội dung định hướng phát triển nền kinh tế
Chức năng định hướng có thể khái quát thành những nội dung chủ yếu sau đây:
- Xác định mục tiêu chung dài hạn. Mục tiêu này là cái đích trong một tương lai xa, có
thể vài chục năm hoặc xa hơn.
- Xác định mục tiêu trong từng thời kỳ (có thể là 10, 15, 20 năm) được xác định trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội và được thể hiện trong kế hoạch 5 năm, kế hoạch 3
năm, kế hoạch hàng năm.
- Xác định thứ tự ưu tiên các mục tiêu
- Xác định các giải pháp để đạt được mục tiêu
1.5. Công cụ thể hiện chức năng của Nhà nước về định hướng phát triển kinh tế
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
- Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội (dài hạn, trung hạn, ngắn hạn)
- Các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
- Các dự án ưu tiên phát triển kinh tế xã hội
- Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự án phát triển cũng dùng cho
việc định hướng phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ.
1.6. Nhiệm vụ của Nhà nước để thực hiện chức năng định hướng phát triển.
Nhà nước phải tiến hành các công việc sau:
- Phân tích đánh giá thực trạng của nền kinh tế hiên nay, những nhân tố trong nước và
quốc tế có ảnh hưởng đến sự phát triển hiện tại và tương lai của nền kinh tế nước nhà.
- Dự báo phát triển kinh tế
- Hoạch định phát triển kinh tế, bao gồm:
+ Xây dựng đường lối phát triển kinh tế-xã hội
+ Hoạch định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
+ Hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội
+ Hoạch định phát triển ngành, vùng, địa phương
+ Lập chương trình mục tiêu và dự án để phát triển
2. Tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế
2.1. Khái niệm về môi trường cho sự phát triển kinh tế