Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ôn thi công chức thuế: Lý luận cơ bản về thuế
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ
I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT THUẾ
1.1. Nguồn gốc của thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là
một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước.
Để duy trì sự tồn tại của mình, nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi
tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến
địa phương, thuộc phạm vi lãnh thổ mà nhà nước đó đang cai quản; chi cho các
công việc ban đầu thuộc chức năng của nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi
cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công
cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung, nhà nước thường sử
dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng
quyền lực nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó, hình thức quyên góp
tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức tự nguyện,
không mang tính ổn định và lâu dài, thường được nhà nước sử dụng có giới hạn
trong một số trường hợp đặc biệt, để bổ sung cho những nhiệm vụ chi đột xuất
hoặc cấp bách. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, nhà nước dùng quyền
lực buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho ngân sách nhà
nước. Đây là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho
đất nước.
Hình thức nhà nước dùng quyền lực buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của mình - chính là thuế.
Về quan hệ giữa nhà nước và thuế, Mác đã viết: "Thuế là cơ sở kinh tế của
bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật mà
người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của nhà nước"
1
. Ăng
ghen cũng đã viết: "Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp
của công dân cho nhà nước, đó là thuế".2
Thuế luôn gắn chặt với sự hình thành và tồn tại của hệ thống nhà nước,
đồng thời thuế cũng phát triển cùng với sự phát triển của hệ thống nhà nước.
Thuế xuất hiện từ khá lâu, từ lúc nhà nước bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên
khoa học về thuế chỉ ra đời vào cuối thời kỳ phong kiến, đầu thời kỳ chủ nghĩa
tư bản. Các lý thuyết về thuế được xây dựng trên các học thuyết kinh tế dựa trên
cơ sở một nền kinh tế thị trường.
1 M¸c- ¡ng Ghen tuyÓn tËp- Nhµ xuÊt b¶n sù thËt, Hµ Néi, 1961, tËp 2
2 ¡ng Ghen: Nguån gèc cña gia ®×nh, cña chÕ ®é t h÷u vµ Nhµ níc - Nxb Sù thËt, Hµ Néi, 1962
Trong nền kinh tế thị trường, tùy theo mức độ thị trường hoá các quan hệ
kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia, mà các chính phủ vận dụng các lý thuyết vào
hệ thống chính sách thuế của mình một cách thích hợp. Việc suy tôn học thuyết
này hay học thuyết khác chỉ mang tính lịch sử, không mang tính đối kháng và
điều quan trọng nhất cho các nhà hoạch định chính sách thuế các quốc gia là tìm
ra những ứng dụng hiệu quả nhất, để thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ
của thuế trong cơ chế thị trường mà không quá chú trọng vào trường phái lý
thuyết nhất định.
1.2. Bản chất của thuế
Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất
của Nhà nước quy định bản chất của thuế. Về mặt lý luận, bản chất của nhà
nước vốn mang tính giai cấp. Không có một nhà nước phi giai cấp mà chỉ có nhà
nước của giai cấp nào mà thôi. Vì vậy, suy cho cùng bản chất thuế cũng mang
tính giai cấp. Có thể hiểu được điều này, thông qua nội dung cuộc nói chuyện
của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu nhân dân địa phương tại Thanh Hoá,
ngày 13-6-1957, như sau:
“…Trước kia phải nộp thuế, nay dân chủ cũng phải nộp thuế. Trước ta nộp
thuế là nộp cho Tây, chúng lấy mồ hôi nước mắt của nhân dân ta mà làm giàu
cho chúng nó, để xây dựng bộ máy áp bức bóc lột đồng bào ta. Nhưng nay ta
đóng thuế là để làm lợi cho ta.
…
Tóm lại, muốn xây dựng nước nhà, Chính phủ phải có tiền, tiền đó do đồng
bào góp lại. Trước hết là đồng bào nông dân đông nhất, rồi đến công thương.
Nếu không có tiền thì Chính phủ không xây dựng được. Vì vậy, đồng bào phải
giúp Chính phủ, nghĩa là đồng bào phải nộp thuế”
- Trong chế độ phong kiến, hệ thống thuế khoá nhằm huy động sự đóng góp
tiền bạc của dân chúng để nuôi dưỡng quân đội, tổ chức bộ máy công quyền,
quan lại để cai trị trong cả nước. Người dân được hưởng rất ít các phúc lợi công
cộng từ phía nhà nước.
- Đến khi giai cấp tư sản nắm được chính quyền, giai đoạn đầu họ chủ
trương xây nhà nước tự do, không can thiệp vào hoạt động kinh tế của các lực
lượng kinh tế thị trường. Nhà nước chỉ đảm nhận nhiệm vụ giữ gìn an ninh, quốc
phòng. Thuế khóa chỉ đóng vai trò huy động nguồn lực tài chính tối thiểu để nuôi
sống bộ máy nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu công cộng khác. Nhưng khi
bước vào những năm 29- 33 của thế kỷ XX, nền kinh tế của các nước tư bản lâm
vào khủng hoảng. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, nhà nước tư sản
phải can thiệp vào hoạt động kinh tế bằng cách lập ra các chương trình đầu tư lớn
và thực hiện tái phân phối thu nhập xã hội thông qua các công cụ tài chính. Trong
số các công cụ trên thì thuế là công cụ quan trọng và sắc bén để nhà nước thực
hiện điều chỉnh nền kinh tế.
2
- Hệ số huy động thuế
Mặc dù, thuế được coi là công cụ chủ yếu để huy động tập trung nguồn lực
tài chính cho nhà nước, nhưng không có nghĩa là nhà nước có thể quy định mức
động viên thuế cao để tăng thu về thuế bằng mọi giá, mà mức độ động viên thuế
chỉ có một giới hạn nhất định. Nếu nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá
mức phần thu nhập từ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cho ngân sách nhà
nước, thì phần GDP còn lại dành cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm
xuống. Đến một lúc nào đó, nếu họ nhận thấy rằng công sức bỏ vào kinh doanh,
vào làm việc được bù đắp không thoả đáng thì họ sẽ nghỉ không kinh doanh hoặc
chuyển sang kinh doanh ngầm và tìm mọi cách để trốn thuế. Như vậy, có thể
thấy rằng, khả năng thu thuế tối đa cho ngân sách nhà nước là khoản thu nhập mà
các doanh nghiệp và người dân sẵn sàng giành ra để trả thuế mà không làm thay
đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền kinh tế quốc dân, khả
năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ lệ phần trăm của
GDP được động viên vào ngân sách nhà nước được gọi là hệ số huy động thuế
hay hệ số gánh nặng thuế.
Hệ số huy động thuế không chỉ là cơ sở chính để tham khảo việc các quốc
gia xây dựng chính sách thuế của họ mà còn là một dấu hiệu để so sánh mức độ
huy động thuế giữa các quốc gia khác nhau. Hệ số huy động thuế này bao nhiêu
thì ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập sau thuế và gián tiếp đến mức tiêu dùng và
tiêu chuẩn sống của nhân dân. Đó là điều mà các quốc gia cần cân nhắc. Trong
giai đoạn kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, hệ số huy động thuế có thể phản
ảnh xu thế dịch chuyển dòng vốn, lao động giữa các quốc gia trên thế giới. Vì
vậy, để gia tăng sự phồn vinh trong cộng đồng dân cư, tất cả các quốc gia xem
thuế là nguồn thu chính, phải đưa ra một mức thuế hợp lý trong chính sách thuế
của mình. Độ lớn của hệ số huy động thuế vì thế trở thành một trong những dấu
hiệu quan trọng để đánh giá việc hoàn thiện hơn của một nền kinh tế.
Nếu gọi T là tổng số thuế có thể thu được vào Ngân sách Nhà nước thì hệ số
huy động thuế là: T/GDP X 100
Hệ số này được dùng để chỉ ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa
các khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Nếu Nhà nước động viên thuế chưa
đạt tới giới hạn khả năng thu thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào tay Nhà
nước chưa đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên vượt quá giới hạn khả năng thu thuế
thì sẽ làm giảm khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp, do đó
làm giảm số thuế thu được trong tương lai.
Hệ số huy động thuế bình quân hàng năm từ năm 1992 thường là 17% và
luôn có khuynh hướng luôn gia tăng. Hệ số huy động thuế giữa các quốc gia
khác nhau tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế nước đó đang trong giai
đoạn nào. Ví dụ: Hệ số này ở Đài loan trong năm 1996 là 19,8%, trong khi đó
Mỹ là 22,5% và Nhật là 17,5%3
.
3 Guide to ROC taxes, Taxation and tariff commission, Ministry of Finance the Republic of China, Page 6.
3
Trong chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu duy trì tỷ lệ động viên từ GDP
vào ngân sách khoảng từ 18 đến 19%. Như vậy tính trên GNP khả năng chúng ta
chỉ đạt đến gần 17% bởi phần FDI trong nước lớn, trong khi phần đầu tư ra
nước ngoài chúng ta còn hạn chế, vì vậy gánh nặng thuế của chúng ta vẫn thuộc
nhóm thấp trên thế giới.
- Bản chất nhà nước và các nội dung sử dụng tiền thuế
Hệ số huy động thuế do còn gọi là độ lớn của gánh nặng thuế đánh vào
cộng đồng, vì vậy mặt nào đó thể hiện sức chịu đựng của nhân dân trong việc
huy động thuế của nhà nước. Hệ số huy động thuế của một quốc gia tăng, chứng
tỏ tốc độ tăng tiết kiệm của khu vực dân cư sẽ giảm và tất yếu phần đầu tư trong
khu vực tư nhân sẽ khó có khả năng gia tăng. Trong trường hợp hệ số huy động
tăng, nhưng chi tiêu chính phủ hợp lý, đầu tư của Chính Phủ hiệu quả, thì sự tăng
trưởng của nền kinh tế vẫn bình ổn. Tuy nhiên, theo đánh giá thông thường, đầu
tư trong khu vực nhà nước thường kém hiệu quả hơn trong đầu tư của lĩnh vực tư
nhân, vì vậy việc tăng mức huy động thuế quá cao sẽ làm cho nền kinh tế giảm
bớt nhịp độ phát triển.
Thông thường việc huy động tiền thuế là do cơ quan thuế đảm nhận. Mức
huy động cao sẽ gây khó khăn cho việc hành thu và dưới con mắt người dân, cơ
quan thuế sẽ khó được thông cảm. Tuy nhiên, việc huy động thuế có thực sự trở
thành gánh nặng hay không, còn tùy thuộc vào việc sử dụng tiền thuế của nhà
nước đó. Việc sử dụng tiền thuế của các nhà nước trong các thời kỳ tập trung vào
các nội dung chủ yếu sau:
Thời kỳ mới xây dựng nhà nước: tiền thuế chủ yếu dùng để mua hàng hoá
và dịch vụ để cung ứng cho các hoạt động công cộng thiết yếu như: an ninh,
quốc phòng, y tế, giáo dục. Trong thời kỳ này mức thu thường thấp vì kinh tế
đang trong tình trạng bất ổn và đời sống nhân dân đang còn nhiều khó khăn.
Mức huy động tuy thấp, nhưng để bảo đảm cho các nhiệm vụ chi tiêu này, tỷ lệ
huy động trên GDP cũng không thấp.
Thời kỳ ổn định nhà nước: ngoài việc đảm bảo chi cho các nhiệm vụ thiết
yếu của đất nước như trên, nhà nước còn sử dụng tiền thuế để trợ giúp thêm cho
một nhóm người không còn khả năng lao động, đặc biệt là những người đã đóng
góp vào thành quả xây dựng nhà nước - gọi chung là đối tượng xã hội.
Thời kỳ phát triển thêm chức năng kinh tế: Khi thực hiện chức năng điều
tiết kinh tế thị trường, các nhà nước thường sử dụng tiền thuế để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Một số nhà nước dùng tiền thuế để phát triển các ngành sản xuất độc
quyền nhà nước, tuy nhiên phần lớn để làm động lực cho các thành phần kinh tế
khác phát triển, các nhà nước dùng tiền thuế tài trợ cho các dự án kinh tế có mục
tiêu để thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia theo định hướng của mình.
4
Thời kỳ phát triển nhà nước phúc lợi: Sau khi ổn định các nhiệm vụ công
cộng khác, nhiều nhà nước đứng ra tổ chức các dịch vụ công cộng để gia tăng
phúc lợi cho cộng đồng, thông qua việc huy động tiền thuế. Tuy nhiên, hiệu quả
của các dịch vụ công vẫn là một vấn đề cần lưu tâm. Các quốc gia phát triển có
mức huy động cao, có khi lên đến 35% song do nhờ mở rộng dịch vụ công đến
nhiều lĩnh vực khác nhau để phục vụ miễn phí cho cộng đồng, vì vậy cũng rất ít
khi bị kêu ca về gánh nặng thuế.
Có thể nói bản chất của một nhà nước không thể hiện ra trong các tôn chỉ
nhà nước đó đưa ra, mà nó thể hiện rất cụ thể qua việc sử dụng tiền thuế của nhà
nước đó trong việc điều hành đất nước. Việc đánh giá một nhà nước có thật sự
do dân, vì dân hay không, chỉ có thể đoán chắc trong việc nhận định và đánh giá
mục đích và hiệu quả của việc sử dụng tiền thuế mà người dân đóng góp.
1.3. Phí và Lệ phí
Theo nhiều quan điểm khác nhau và trong từng quốc gia khác nhau, khái
niệm phí và lệ phí tồn tại với những nội hàm khác nhau. Trong bối cảnh thực tế
của Việt Nam, phí và lệ phí vẫn còn là một nguồn thu bên cạnh thuế, góp phần
không nhỏ vào việc đảm bảo hỗ trợ chi tiêu cho ngân sách nhà nước trong giai
đoạn chuyển đổi. Tuy nhiên, khi nền kinh tế thị trường thực sự phát triển và đặc
biệt khi đất nước hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quan điểm về
phí và lệ phí sẽ có nhiều thay đổi. Để có sự phân định, phần phí và lệ phí này chỉ
được hiểu trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam.
1.3.1. Khái niệm Phí
Phí là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá
nhân khác cung cấp dịch vụ được nhà nước cho phép thu theo danh mục quy
định.
Theo Pháp lệnh Phí và Lệ phí được ban hành năm 2002, Phí bao gồm hai
loại:
Phí thuộc ngân sách nhà nước và phí không thuộc ngân sách nhà nước
Phí thuộc ngân sách nhà nước là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải
trả khi được một tổ chức nhà nước cung cấp dịch vụ không mang tính kinh
doanh được Nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
Phí không thuộc ngân sách nhà nước là khoản tiền mà một tổ chức, cá
nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ mang tính
kinh doanh được Nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
5