Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

O nhiem moi truong nuoc viet nam (hot news)
PREMIUM
Số trang
74
Kích thước
1011.3 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
806

O nhiem moi truong nuoc viet nam (hot news)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TRUNG QUỐC: Ô NHIỄM SÔNG ĐE DOẠ NGUỒN NƯỚC

Ngày 6/4/2007. Cập nhật lúc 21h

1'

Theo hãng thông tấn Tân Hoa ngày 6/4, nguồn cung cấp nước cho khoảng 150.000 người dân

ở Tây Nam Trung Quốc đang bị đe doạ sau khi người ta phát hiện một con sông bị nhiễm kim

loại nặng.

Các xét nghiệm được tiến hành trong tuần này cho thấy có tỷ lệ lớn các chất kim loại nặng, trong đó

có chì, trong nước sông Hồng Hà, khúc sông dài 100 km chảy qua địa phận tỉnh Quảng Tây. Cơ

quan chức năng đang tiếp tục kiểm tra mức độ ô nhiễm và tìm hiểu nguyên nhân. Trước tình hình

này, một trong 7 nhà máy cấp nước địa phương đã ngừng hoạt động, mức độ ảnh hưởng đối với sáu

nhà máy còn lại chưa được xác định. Đây là một trong hàng loạt vụ ô nhiễm nguồn nước lớn ở Trung

Quốc được phát hiện gần đây.

Hồi tháng 11/2005, khoảng 100 tấn ben-den gây ung thư và ni-tơ-ben-den đã đổ xuống sông Tùng

Hoa ở Đông Bắc Trung Quốc sau khi xảy ra vụ nổ tại một nhà máy hóa chất của Tập đoàn dầu khí

Petrochina. Vụ nổ đã cướp đi sinh mạng của 8 người, gây ô nhiễm nghiêm trọng trên diện rộng và

nhà chức trách phải ngừng cung cấp nước trong nhiều ngày cho hàng triệu người sống hai bên bờ

sông Tùng Hoa.

Tháng 8 năm ngoái, một xe chở 25 tấn hóa chất đã lao xuống một dòng sông ở tỉnh Thiểm Tây, miền

Bắc Trung Quốc, gây ảnh hưởng tới nguồn cung cấp nước cho 100.000 người dân khu vực này./.

Châu á quá chú trọng vào tǎng trưởng kinh tế mà không chú ý đầy đủ đến

môi trường đã phải gánh chịu các huỷ hoại môi trường tràn lan. Các chi

phí do ô nhiễm không khí và nước và suy thoái đất trồng rất lớn theo cách

tính kinh tế đơn giản. Chi phí của toàn khu vực do suy thoái môi trường

gây ra là 5 % GDP hàng nǎm và có thể đến 10% ở Trung Quốc. Người

nghèo trong khu vực là nhóm người bị chịu đựng lớn nhất, lại hoàn toàn bị

bỏ rơi. Các nước châu á đang nhận ra rằng các giải pháp hoán đảo giữa

hành động môi trường có hiệu quả với tǎng trưởng kinh tế đã đổi thay.

Tiến bộ kinh tế trên thế giới đang chứng minh là mang lại lợi ích đối với

môi trường nếu tiến bộ kinh tế tạo ra các nguồn lực để bảo vệ môi trường

tốt hơn và thúc đẩy các công nghệ mới có hiệu qủa về mặt môi trường.

Giáo dục tốt hơn và có thu nhập cao hơn là yếu tố cốt lõi để giảm thiểu

huỷ hoại môi trường. Mặc dù có được các khả nǎng mới này, nhưng các

vấn đề nan giải về môi trường của châu á vẫn gia tǎng. Ô nhiễm Ô nhiễm

đô thị và suy thoái môi trường đô thị của châu á vẫn gia tǎng và ô nhiễm

công nghiệp còn tǎng nhanh hơn tǎng trưởng kinh tế. Ô nhiễm nước còn

tồi tệ hơn, nhiễm bẩn các nguồn nước mặt và nước ngầm ở các khu vực

đô thị và công nghiệp. Các mức ô nhiễm không khí cao ở các siêu thành

phố châu á và nhiều thành phố cấp hai, nơi các cư dân sử dụng than để

đun nấu và sưởi. Chi phí kinh tế về huỷ hoại sức khoẻ do ô nhiễm không

khí ước tính là 1 tỷ đôla/nǎm ở Bǎngkok, Jakarta và các thành phố châu á

khác. Suy thoái tài nguyên thiên nhiên Suy thoái đất trồng, phá rừng, khai

hoang vùng đất ngập nước lan tràn và mất đa dạng sinh học đang gây ra

các vấn đề nan giải về quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên khắp

châu á. Suy thoái đất trồng ở các nước có dân số đông như Pakistan, ấn

Độ, Bangladesh và Trung Quốc, đã tác động đáng kể đến nông nghiệp.

Phá rừng đang làm cạn kiệt nguồn của cải quốc gia của các nước giàu

rừng, như Campuchia, Lào, Indonesia, Papua New Guinea và quần đảo

Solomon. Đương đầu với các thách thức Để giải quyết các vấn đề nan giải

này, các nước châu á đang tǎng cường thể chế, luật pháp và các chiến

lược môi trường, và đang cam kết dành thêm nhiều nguồn lực. Vào nǎm

2000, ước tính mỗi nǎm sẽ phải cần thêm 30 triệu đến 40 triệu đôla. Sự

tham gia của khu vực tư nhân giữ vai trò quan trọng và nhu vậy, cần phải

có các cải cách chính sách và cải cách giá để cải thiện lãi suất cho các

khoản tiền đầu tư cho cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân

với tới các nguồn thông tin, tới các chính sách kích thích kinh tế của chính

phủ, nâng cao hiệu lực luật pháp và giáo dục môi trường để tạo ra sự

tham gia rộng rãi trong quá trình quản lý môi trưồng. Ngân hàng Thế giới

là cơ quan đi đầu giúp châu á trước các thách thức này. Nǎm 1996, Ngân

hàng đã khởi xướng các nỗ lực trên ba mặt trận- đầu tư quản lý ô nhiễm

và tài nguyên; tǎng cường thể chế thông qua xây dựng nǎng lực, phân tích

chính sách và đối thoại; và cải cách kiểm soát ô nhiễm công nghiệp và quy

định giá tài nguyên nước. Nǎm 1996, các dự án môi trường ở hai khu vực

châu á- Đông á và TBD và Nam á, được Ngân hàng tài trợ, tǎng từ 45 dự

án lên 53 dự án ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, ấn Độ, Indonesia,

Triều Tiên, Lào, Nepal, Pakistan, Philippines, Sri Lanka và Thái Lan. Cân

đối giữa các dự án quản lý ô nhiễm và tài nguyên thiên nhiên ở hai khu

vực trên phản ánh mức độ phát triển khác nhau. 29 dự án ở Đông á tập

trung vào vấn đề quản lý ô nhiễm và môi trường đô thị (riêng Trung Quốc

có 10 dự án), trong khi đó Nam á chỉ có 6 dự án loại này (Ân độ có 5).

Nam á có số dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên hoặc quản lý môi trường

nông thôn nhiều hơn (16 trong 24 dự án ở Nam á) so với Đông á, chỉ có 9

dự án. Chỉ có 6 dự án xây dựng thể chế (4 ở Đông á và 2 ở Nam á). Ngân

Hàng đóng góp cho các dự án này là 3 tỷ $, trong tổng kinh phí là 8.8 tỷ$ ở

Đông á và 1,7 tỷ trong tổng kinh phí 2,6 tỷ $ ở Nam á. Trung Quốc, ấn Độ

và Indonesia là các nước vay tiền nhiều nhất cho các dự án môi trường.

TRUNG QUốC : Các dự án giải quyết ô nhiễm nước và không khí đô thị

của Trung Quốc được duyệt nǎm 1996, bao gồm bảo vệ môi trường đô thị

Hubei; môi trường Vân Nam; Cống nước thải thành phố Thượng Hải thứ

hai; Cải cách công nghiệp Chongqing và các dự án kiểm soát. Bốn dự án

này do các chính quyền thành phố và tỉnh thực hiện để nâng cao hiệu lực

cưỡng chế của các quy định môi trường, các nguồn tài nguyên và các dự

án đầu tư tài chính nhằm cải thiện chất lượng không khí và nước. Ngân

hàng tiếp tục giúp Cơ quan Bảo vệ Môi trường Trung Quốc về các vấn đề

chính sách môi trường quốc gia và giúp Viện hàn lâm Khoa học Trung

Quốc điều phối nghiên cứu sinh thái. Ngân hàng đã hỗ trợ đối thoại chính

sách về kiểm soát ô nhiễm công nghiệp, nǎng lượng và quy định giá nước.

Các cải cách về biểu giá nước và nước thải đang được thực hiện. Công

tác giám sát ba dự án tài nguyên thiên nhiên được duyệt trong nǎm tài

chính 1994, và một dự án đập lớn nhất thế giới, ERTAN, trong đó có bộ

phận quản lý môi trường, đang tiếp tục thực hiện. ấn Độ : Trong khuôn khổ

điều chỉnh kinh tế của nước này, Ngân Hàng tiếp tục tìm kiếm các cơ hội

để đưa các chính sách hợp lý môi trường vào nền kinh tế ấn Độ. Ba dự án

được duyệt nǎm 1996 là Dự án môi trường duyên hải và giảm thiểu Xã

hội, Dự án xử lý nước thải đô thị Bombay và Dự án thuỷ vǎn. Dự án xử lý

nước thải đô thị Bombay đặt trọng tâm vào các hoạt động đầu tư mới về

thu gom nước thải cống rãnh, cơ sở hạ tầng xử lý và tính bền vững về tài

chính trong khi đó vẫn tǎng cường công tác quản lý môi trường của chính

quyền thành phố. Dự án thuỷ vǎn được thiết kế đáp ứng các nhu cầu về

thể chế và cơ sở vật chất để cải thiện công tác quản lý tài nguyên thiên

nhiên. Các hoạt động ở ấn Độ còn bao gồm cung cấp tín dụng xây dựng

cơ sở hạ tầng và các dịch vụ tài chính và các khoản vay trung hạn cung

cấp tín dụng đầu tư cho các hệ thống cấp nước và vệ sinh môi trường và

vận hành các cơ sở hạ tầng khác, nhằm cải thiện môi trường và sức khoẻ.

Cơ sở khung đánh giá môi trường và xã hội cũng đang được áp dung cho

các dự án khác thuộc khu vực tư nhân xây dựng các cơ sở hạ tầng.

INDONESIA: Nǎm 1996 Ngân hàng cùng GEF, duyệt dự án tổng hợp Phát

triển và Bảo tồn ĐDSH Kerinci-Seblar. Dự án này được thiết kế để bảo vệ

vườn quốc gia thông qua kết hợp giữa công tác quản lý và bảo tồn với các

họat động phát triển địa phương và vùng, có các mối hợp tác giữa các

cộng đồng ở các khu đệm với các tổ chức phi chính phủ phương và chính

quyền. Một dự án khác được Ngân hàng hỗ trợ là hệ thống được gọi

"PROPER", hệ thống này được sử dụng để công khai đánh giá việc thực

hiện môi trường của các hãng và khuyến khích dân chúng tham gia vào

công tác kiểm soát ô nhiễm công nghiệp của các hãng. Philippines đang

thảo luận để áp dụng hệ thống này. Ngoài các dự án trên, Ngân hàng Thế

giới còn thực hiện các hoạt động đối thoại chính sách và xác định ưu tiên

ở châu á: * Đối thoại chính sách: Ngân hàng giúp Việt Nam tập trung vào

các vấn đề các mối liên can môi trường của chiến lược công nghiệp hoá

và hỗ trợ kỹ thuật, nhằm giúp Chính phủ Việt Nam xây dựng các tiêu

chuẩn và cơ chế nâng cao hiệu lực. Ngân hàng tiếp tục giúp Thái Lan xác

định rõ các tác động sức khoẻ do ô nhiễm không khí của Bangkok gây ra

và tính toán các biện pháp chi phí-hiệu quả, nhằm giúp thành phố này đạt

được các mục tiêu đề ra. Tại Lào và Campuchia, Ngân hàng giúp cải cách

chính sách và khung thể chế trong công tác quản lý rừng đang bị tàn phá ỏ

hai nước này. * Xác định ưu tiên: Một số dự án của Nam á đang giải quyết

các vấn đề xác định ưu tiên môi trường và xây dựng nǎng lực thể chế môi

trường, như Bangladesh đang thực hiện kế hoạch hành động quản lý môi

trường. Tại Sri Lanka, Ngân Hàng đã xác định các nhu cầu tài trợ cho cơ

quan bảo vệ môi trường nước naỳ. Các nỗ lực đang được thực hiện để

soạn thảo kế hoạch hành động ĐDSH và dự án đầu tư bảo tồn các cây

thuốc. Tại Pakistan có hai nghiên cứu về các ưu tiên, thể chế và các chính

sách môi trường quốc gia. Ngoài ra nước này còn được tài trợ thêm 4 dự

án về quản lý rừng và tài nguyên đất. Vượt ra ngoài biên giới quốc gia

Cuối nǎm 1996, một chiến lược mới của Nam á đã được khởi xướng để

xem xét tiềm nǎng giữa các nước thuộc tiểu khu vực này về phát triển bền

vững, nhất là tiểu khu tam giác, gồm Nepal, đông ấn Độ, Bangladesh và

Bhutan, nơi có số dân hơn 500 triệu người sống dưới mức nghèo khổ

(dưới 1 đôla Mỹ ngày), có các số chỉ thị về vǎn hoá thấp nhất và tử vong

trẻ sơ sinh cao nhất thế giới. Chiến lược này được thiết kế tập trung vào

các vấn đề giao thông, buôn bán qua biên giới, cơ sở hạ tầng nǎng lượng

và nguồn tài nguyên nước, và có thể mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực

công nghiệp và nông nghiệp và các vấn đề đan chéo khác, như môi

trường và phát triển nguồn nhân lực. Chiến lược đưa ra chương trình nghị

sự, bao gồm việc nghiên cứu con đường chiến lược hoặc nối đường sắt,

xây dựng mạng đường ống dẫn khí đốt, và các con đập đa mục tiêu, cũng

như các giải pháp lựa chọn phần mềm, như các thoả thuận quốc tế, các

chính sách thương mại và quá cảnh, quản lý toàn diện các lưu vực sông

quốc tế và quy định gia nǎng lượng. Ngoài ra, các nỗ lực của khu vực

châu á còn chú trọng đến : * Phân tích các vấn đề môi trường xuyên biên

giới với Trung Quốc, vùng viễn đông của Nga, Nhật Bản và Triều Tiên. Một

báo cáo đã được soạn thảo xem xét việc di chuyển thương mại gỗ trong

vùng khi các nước thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường. * Chương

trình Mưa châu á phân tích mưa a-xít toàn châu á. Giai đoạn II của Mưa

châu á bắt đầu áp dụng mô hình của giai đoạn I ở Trung Quốc, Indonesia

và Thái Lan và Giai đoạn II mới đây được Nhật Bản và Na Uy tài trợ. * Dự

án Cải thiện môi trường thành phố hỗ trợ xây dựng nǎng lực quản lý đô thị

ở Bắc Kinh, Bombay, Colombo, Jakarta, Katmandu và Manila do Chính

phủ Bỉ, Hà Lan, Australia tài trợ. Dự án này đã bắt đầu được triển khai tại

Việt Nam, và đang mở rộng sang các thành phố loại hai của Philippines,

Sri Lanka và Indonesia. * Đề xướng về Sản xuất sạch đang giúp các

chương trình ở Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, ấn Độ và Sri

Lanka, tập trung vào các vấn đề chính sách xây dựng thể chế đào tạo và

chuyển giao công nghệ. Hướng về phía trước: Thách thức của các nước

châu á là tiến hành một mặt trận môi trường thật tốt như họ đang thực

hiện tốt mặt trận kinh tế. Các công việc tiếp theo sẽ vẫn tập trung vào nâng

cao nǎng lực của các cơ quan môi trường và các cơ quan chính phủ khác

chịu trách nhiệm về đầu tư môi trường ở cả đô thị lẫn nông thôn. Các vấn

đề đô thị, công nghiệp, nước và nǎng lượng chắc chắn vẫn sẽ là các vấn

đề nan giải trên tuyến đầu môi trường. Ngân hàng vẫn tiếp tục hỗ trợ châu

á trong các thách thức môi trường này. Châu á có thể hy vọng Ngân hàng

tham gia vào các dịch vụ không phải cho vay tiền, như cố vấn chính sách

liên quan đến môi trường và tiếp tục các sáng kiến giữa các nước, cho dù

việc cho ác nước Nam-đông ávay tiền có thành công về kinh tế hơn, bị

giảm đi. Nguồn: Asian Water & Sewage, Jan-Feb 97 Vol.13, No.1

Thấy gì qua một hội nghị

về môi trường?

Chất thải công nghiệp, sinh hoạt đang gây ô

nhiễm trầm trọng kênh rạch ở TP.HCM.

Tình hình ô nhiễm môi trường tại các đô

thị lớn như TP.HCM, Bình Dương, Đồng

Nai đã vượt xa mức đáng sợ. Các dòng

sông đang từng ngày, từng giờ cung cấp

một nguồn nước "bẩn" cho hàng chục

triệu người dân.

Bản báo cáo kết quả điều tra công phu

gây chấn động tại hội nghị về môi

trường mới đây của Phó giáo sư - tiến sĩ

Huỳnh Thị Minh Hằng và các cộng sự

thuộc Viện Môi trường và Tài nguyên -

Đại học Quốc gia TP.HCM cho thấy lưu

vực sông Đồng Nai (trong đó có sông

Sài Gòn) bị ô nhiễm gây ảnh hưởng đến

khoảng 15 triệu người ở 4 thành phố

trực thuộc tỉnh, 19 quận nội thành của

TP.HCM, 8 thị xã và 85 thị trấn.

Sự ô nhiễm ấy xuất phát từ chất thải

của 116 khu đô thị có quy mô khác

nhau; 47 khu công nghiệp, khu chế xuất

tập trung; trên 50.000 cơ sở sản xuất

công nghiệp; 73 bãi rác; hàng nghìn cơ

sở chăn nuôi có quy mô lớn; hàng chục

bến cảng... Các nhà khoa học dẫn ra

một ví dụ: Trong số 47 khu công nghiệp

tập trung có đến 31 khu xả nước thải

Sông Đồng Nai chết lâm sàng!

Nguồn sống bị...đầu độc!

chưa qua xử lý trực tiếp vào nguồn nước

của hệ thống sông Đồng Nai với khoảng

111.605m3 nước thải mỗi ngày, trong

lượng nước đó có gần 15 tấn TSS; 19,6

tấn BOD5; 76,9 tấn COD; 1,6 tấn Nitơ

Armoniac... Những chất nguy hại đến

sức khỏe của con người này đang ngày

càng nhiều thêm. Báo cáo khoa học

cũng nhận định rằng: "Trên lưu vực hệ

thống sông Đồng Nai có rất nhiều dòng

thải mà trong thành phần của chúng có

chứa các chất nguy hại như các a-xít,

ba-zơ, các kim loại nặng như Hg, Pb,

Zn, Cr, Ni..., thuốc bảo vệ thực vật, dầu

mỡ khoáng, vi trùng gây bệnh... Các

dòng thải này không được kiểm soát và

quản lý nên gây ô nhiễm, hủy hoại môi

trường và nguồn nước nghiêm trọng".

Sau khi kết thúc hội nghị, ngày

13/1/2006, Bộ Tài nguyên - Môi trường

đã có công văn đề nghị 12 tỉnh thành

trên lưu vực hệ thống sông Đồng Nai

cấp bách triển khai 8 biện pháp, cụ thể

như: bảo đảm ít nhất 70% các khu công

nghiệp có hệ thống xử lý nước thải đạt

tiêu chuẩn môi trường, tăng mức đầu tư

cho bảo vệ môi trường ít nhất là 15% so

với mức đầu tư năm 2005, kiên quyết

Coliform vượt mức cho phép 1.860

lần

Công nghệ 60 năm trước của nhà máy nước

Thủ Đức có còn linh nghiệm?

không cho phép xây dựng mới các cơ sở

có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường

nghiêm trọng...

Mọi biện pháp còn nguyên trên giấy.

Triệu triệu dân vẫn miệt mài hứng chịu

sự ô nhiễm. Bài học “Làng ung thư” ở

Phú Thọ lliệu đã mấy người quên?

(Theo bộ Tài nguyên và Môi trường)

Quay về trang chủ

15 triệu người sẽ thiếu

nước sạch

Trong khi các cơ quan chức năng chưa

xử lý vụ “đầu độc” sông Thị Vải thì sông

Đồng Nai hiện cũng đang ngày càng

chết dần vì “căn bệnh” ô nhiễm trong sự

thờ ơ của người dân cũng như cơ quan

chức năng.

Lo lắng trước chất lượng nguồn nước

của con sông ngày càng tồi tệ, các nhà

khoa học buộc lên tiếng: “15 triệu người

sẽ ra sao khi sông Đồng Nai... chết!”.

Với trữ lượng tiềm năng 36,6 tỉ m3

nước, nhiều năm qua, sông Đồng Nai đã

đem lại nguồn lợi khổng lồ về điện

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!