Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Những vấn đề về mạch lạc văn bản trong bài làm văn của học sinh
PREMIUM
Số trang
214
Kích thước
2.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1399

Những vấn đề về mạch lạc văn bản trong bài làm văn của học sinh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHAN THỊ AI

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MẠCH LẠC VĂN BẢN

TRONG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ

Mã số: 62.22.01.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. DƢ NGỌC NGÂN

2. PGS.TS. TRỊNH SÂM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011

2

MỤC LỤC

Trang phụ bìa Trang

Lời cam đoan

Mục lục......................................................................................................................1

Quy ước trình bày......................................................................................................3

Danh mục các bảng và sơ đồ.....................................................................................4

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu ...........................................................5

2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................12

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu.......................................................13

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................14

6. Cấu trúc của luận án............................................................................................15

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ VĂN BẢN, ĐOẠN VĂN VÀ MẠCH LẠC

1.1. Văn bản ............................................................................................................17

1.1.1. Vài nét về ngữ pháp văn bản....................................................................17

1.1.2. Khái niệm văn bản ...................................................................................19

1.1.3. Đặc điểm ..................................................................................................22

1.2 Đoạn văn trong văn bản ....................................................................................37

1.2.1. Khái niệm đoạn văn .................................................................................38

1.2.2. Phân loại đoạn văn ...................................................................................39

1.2.3. Cấu trúc đoạn văn.....................................................................................41

1.3. Mạch lạc của văn bản.......................................................................................51

1.3.1. Mạch lạc và liên kết .................................................................................51

1.3.2 Mạch lạc trong văn bản nói và văn bản viết .............................................64

1.3.3. Các cấp mạch lạc......................................................................................68

1.4. Tiểu kết ............................................................................................................74

Chƣơng 2

LỖI VỀ MẠCH LẠC

TRONG BÀI TẬP LÀM VĂN CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG

2.1. Kết quả khảo sát...............................................................................................77

2.2. Lỗi về mạch lạc ................................................................................................82

2.2.1. Khái niệm ................................................................................................82

2.2.2 Phân biệt lỗi không mạch lạc và thiếu mạch lạc.......................................84

2.3. Một số lỗi diễn đạt thiếu mạch lạc ...................................................................89

2.3.1. Lỗi câu......................................................................................................90

2.3.2. Lỗi đoạn..................................................................................................109

2.3.3. Lỗi văn bản.............................................................................................122

3

2.4. Tiểu kết ..........................................................................................................130

4

Chƣơng 3

CHUẨN MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN TẬP LÀM VĂN

3.1. Văn bản tập làm văn mạch lạc .......................................................................133

3.1.1. Hình thức một văn bản tập làm văn mạch lạc........................................136

3.1.2. Nội dung một văn bản tập làm văn mạch lạc.........................................139

3.2. Những quan hệ tạo nên mạch lạc trong bài tập làm văn ...............................151

3.3.1 Quan hệ liên kết ......................................................................................151

3.2.2. Quan hệ ngữ nghĩa .................................................................................160

3.3. Tiểu kết...........................................................................................................181

Kết luận ................................................................................................................183

Danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả..................................................187

Tài liệu tham khảo.................................................................................................188

Phụ lục...................................................................................................................194

- Phiếu nhận xét.....................................................................................................194

- Thống kê số liệu..................................................................................................195

- Những ví dụ về câu văn, đoạn văn diễn đạt thiếu mạch lạc ...............................213

5

QUY ƢỚC TRÌNH BÀY

1. Các bảng biểu, sơ đồ được đánh số theo các chương mục của Luận án để

tiện theo dõi.

2. Việc trích dẫn các tài liệu được ghi theo số thứ tự của danh mục “Tài liệu

tham khảo” và được đặt trong dấu ngoặc vuông. Số đầu tiên là số thứ tự

của tài liệu, số kế tiếp là số thứ tự của trang trong tài liệu.

3. Các ví dụ được đánh số theo thứ tự tăng dần (1), (2), (3),… đến hết.

4. Chú thích nguồn cứ liệu: những câu văn, đoạn văn trong phần phụ lục thì

chú thích là (Phụ lục); những câu văn, đoạn văn viết tốt trích từ bài làm

văn của học sinh thì ghi là (Bài làm của học sinh); trích trong tác phẩm

văn học ghi tên tác giả, ví dụ như (Tô Hoài).

5. Chữ viết tắt: THCS: trung học cơ sở; THPT: trung học phổ thông, NAN:

Nguyễn An Ninh.

6

DANH MỤC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ

STT Số bảng,

sơ đồ

Tên bảng và sơ đồ Số

trang

1 1.1 Sơ đồ: Cấu trúc văn bản 25

2 1.2 Sơ đồ: Cấu trúc văn bản tập làm văn 26

3 1.3 Sơ đồ: Cấu trúc câu chuyện “Phần thưởng” 27

4 1.4 Sơ đồ: Cấu trúc đoạn văn diễn dịch – quy nạp 28

5 1.5 Sơ đồ: Cách phân loại đoạn văn 40

6 1.6 Sơ đồ: Cấu trúc đoạn văn diễn dịch 41

7 1.7 Sơ đồ: Cấu trúc đoạn văn quy nạp 42

8 1.8 Sơ đồ: Cấu trúc đoạn văn diễn dịch – quy nạp 43

9 1.9 Sơ đồ: Cấu trúc đoạn văn song hành tự do 45

10 1.10 Sơ đồ: Cấu trúc đoạn văn song hành tuyến tính 45

11 1.11 Sơ đồ: Cấu trúc đoạn văn theo quan hệ đồng thời 46

12 1.12 Sơ đồ: Cấu trúc đoạn văn theo quan hệ thời gian 47

13 1.13 Sơ đồ: Cấu trúc văn bản “Hội thi nấu cơm” 57

14 1.14 Sơ đồ: Quan hệ giữa các thành phần câu ở VD (55) 68

15 1.15 Sơ đồ: Quan hệ giữa các thành phần câu ở VD (56) 68

16 1.16 Sơ đồ: Quan hệ giữa các thành phần câu ở VD (59) 69

17 1.17 Sơ đồ: Quan hệ về nội dung giữa đoạn văn ở VD (60) 71

18 1.18 Sơ đồ: Quan hệ giữa các câu ở VD (61) 72

19 1.19 Sơ đồ: Quan hệ về nội dung giữa đoạn văn ở VD (64) 73

20 2.1 Bảng: Thống kê các loại lỗi 78

21 2.2 Bảng: Thống kê các loại lỗi theo trường 79

22 2.3 Bảng: Thống kê các loại lỗi theo đơn vị lớp 81

23 2.4 Bảng: Thống kê lỗi về câu 92

24 2.5 Bảng: Thống kê lỗi về dùng từ 95

25 2.6 Bảng: Thống kê lỗi diễn đạt thiếu ý 111,112

26 2.7 Bảng: Thống kê lỗi diễn đạt trùng lặp 114

27 2.8 Bảng: Thống kê lỗi diễn đạt lan man 117

28 2.9 Bảng: Thống kê lỗi không tách đoạn 125

29 2.10 Biểu đồ: Các mức độ lỗi trong bài tập làm văn 80

30 2.11 Sơ đồ: Quan hệ giữa các câu ở VD (65) 83

31 2.12 Sơ đồ: Các dạng lỗi diễn đạt thiếu mạch lạc 89

32 2.13 Sơ đồ: Cấu trúc nội dung của VD (145) 123

33 3.1 Sơ đồ: Cấu trúc quan hệ các đoạn trong “Cây tre …” 164

34 3.2 Sơ đồ: Cấu trúc của văn bản “Phan Văn Trị” 169

35 3.3 Sơ đồ: Cấu trúc trong VD (223) 178

7

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

1.1. Lý do chọn đề tài

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trên thế giới, các công trình nghiên

cứu về lĩnh vực ngôn ngữ học văn bản phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều

thành tựu rực rỡ, tiêu biểu như công trình của W. Dressler (1970), P. Hartmann

(1972), G. Kassai (1976), M.A.K. Halliday & Hassan (1976), M. Coulthard

(1977). Sau đó, ở Việt Nam, cũng có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực

này của các tác giả như Nguyễn Trọng Báu - Nguyễn Quang Ninh - Trần Ngọc

Thêm (1985), Trần Ngọc Thêm (1989, 2000), Diệp Quang Ban (1998, 2002,

2006, 2009), Trịnh Sâm – Nguyễn Nguyên Trứ (1989) v.v. Những thành tựu

nghiên cứu về ngữ pháp văn bản đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường

nhằm mở rộng và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt cho học sinh, sinh viên.

Tuy nhiên, phần lớn nội dung dạy học tiếng Việt trong trường phổ thông,

vẫn còn thuộc lĩnh vực từ vựng và ngữ pháp câu. Việc xác định từ đơn, từ ghép;

xác định các thành phần câu trong thực hành tiếng Việt, nhất là trong các tác

phẩm văn học, vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất. N.D. Arutjunova đã

rút ra nhận định chung rằng: “Ra khỏi phạm vi của những câu kinh điển, người

nghiên cứu rơi vào một đại dương rộng mở và không bờ bến của những câu

[…] rất ít được quy phạm hoá về mặt hình thức” [82, tr. 14]. Và E. Benveniste

cũng đã cho rằng câu là sự sáng tạo không cùng và cũng là sự đa dạng không có

giới hạn. Vì vậy, những công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt ngày

càng nhiều và đạt được những thành tựu không nhỏ.

Trong thực tế, nhiều trường hợp sử dụng tiếng Việt của học sinh cho thấy

việc học sinh viết đúng hay sai ngữ pháp không quan trọng bằng việc diễn đạt

rõ ràng, khúc chiết và mạch lạc vì văn chương hay, dù chỉ một đoạn, một câu

cũng phải mạch lạc và chặt chẽ. Quan sát đoạn văn sau:

8

(1) Điều đáng chú ý là thiên nhiên chuyển biến thật mau lẹ, vũ trụ vận

động thật nhanh chóng. (2) Cả vũ trụ bao la từ mặt đất đến bầu trời bỗng rực

rỡ tươi sáng. (3) Trong chốc lát màu hồng thay thế cho bóng tối đêm tàn. (4)

Để nhấn mạnh sự biến đổi mau chóng và triệt để ấy, Bác đã dùng cụm từ “dĩ

thành hồng”, “tảo nhất không”.

Trong đoạn văn trên, tuy từng câu rất đúng ngữ pháp, nhưng người đọc/

người nghe vẫn cảm nhận rằng chuỗi sự kiện được nêu lên còn rời rạc và lủng

củng. Có thể nhận xét rằng sự sắp xếp các câu trong đoạn văn chưa mạch lạc.

Nếu chuyển đổi vị trí của các câu, sắp xếp lại theo thứ tự 1, 4, 3, 2 thì nội dung

đoạn văn sẽ trở nên rõ ràng, chặt chẽ và mạch lạc hơn.

Đã nhiều thập kỷ qua, trong nhà trường, từ lớp hai (bậc tiểu học), học

sinh đã được rèn luyện viết bài tập làm văn, thế nhưng kết quả đạt được còn rất

thấp. Theo một kết quả thống kê, chỉ có khoảng 20% bài viết là diễn đạt rõ ràng

và lưu loát; số còn lại, ngoài những lỗi sai về chính tả, dùng từ, đặt câu, bài viết

có rất nhiều lỗi về diễn đạt như lủng củng, rời rạc, dài dòng, tối nghĩa, nói

chung là thiếu mạch lạc. Những lỗi này chiếm đa số trong bài viết của học sinh

và đang gióng lên hồi chuông báo động. Thực trạng trên nếu không sớm được

khắc phục sẽ làm hạn chế hiệu quả giao tiếp của tiếng Việt.

Thật vậy, nhiều công trình nghiên cứu Việt ngữ học đã xác định đơn vị

giao tiếp là văn bản và chuỗi câu chỉ trở thành văn bản khi mạch lạc; chuỗi câu

càng mạch lạc thì nội dung giao tiếp càng đạt hiệu quả. Song, diễn đạt mạch lạc

là gì, như thế nào là diễn đạt thiếu mạch lạc, hiện nay, vẫn còn là một câu hỏi

lớn.

Vì thế cho nên, chúng tôi đã chọn “Những vấn đề về mạch lạc văn bản

trong bài làm văn của học sinh phổ thông” làm đề tài nghiên cứu cho luận án.

1.2. Mục đích nghiên cứu

Thực tế cho thấy một trong những yếu tố góp phần quan trọng để giao

tiếp thành công chính là sự diễn đạt nội dung một cách khúc chiết và mạch lạc.

9

Vì vậy, hiện nay, mạch lạc (coherence) đang là một đề tài thu hút nhiều nhà

nghiên cứu trong và ngoài nước. Các nhà sư phạm, nhất là các giáo viên ngữ

văn, cũng rất quan tâm đến vấn đề này. Tất cả đều nhằm mục đích là làm sao

cho người nói/ người viết diễn đạt được ý một cách mạch lạc.

Luận án được hình thành không ngoài mục đích chung nêu trên. Chúng

tôi cố gắng trình bày một cách cụ thể, chi tiết các vấn đề về mạch lạc; những

tiêu chí của một câu văn, đoạn văn và văn bản mạch lạc. Đồng thời, qua kết quả

khảo sát ngữ liệu, bước đầu, luận án phác hoạ những yếu tố cơ bản, cần thiết

góp phần xây dựng văn bản tập làm văn mạch lạc.

3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Thuật ngữ mạch lạc chỉ mới xuất hiện trong những thập kỷ gần đây, cụ

thể là trong giai đoạn thứ hai của việc nghiên cứu văn bản. Rõ ràng, khái niệm

mạch lạc văn bản là một vấn đề hoàn toàn không mới nhưng lại rất phức tạp,

được đề cập trong những công trình nghiên cứu của A.J. Greimas (1966), T.

Todorov (1968), V. Dijk (1973), M.A.K. Halliday và R. Hasan (1976), H.G.

Widdowson (1978), D. Beaugrande (1980), G.M. Green (1989), D. Nunan

(1993), D. Togeby (1994), G. Brown và G. Yule (Trần Thuần dịch) (2002).

Cụ thể, tác giả V. Dijk (1973), trong công trình nghiên cứu “Những mô

hình của ngữ pháp văn bản” đã đưa ra ví dụ “Chúng ta sẽ có một số khách ăn

trưa. Calderon (đã) là một nhà văn lớn Tây Ban Nha.” để lập luận phản bác lại

quan điểm cho rằng hai câu đứng gần nhau là có mạch lạc với nhau, ông nhận

xét rằng hai câu đứng gần nhau có thể không mạch lạc với nhau. Theo ông, giữa

hai câu này không có hiện tƣợng nhắc lại từ, cũng không có yếu tố câu này

chƣa rõ nghĩa đòi hỏi phải giải thích bằng yếu tố khác của câu kia và giữa

chúng cũng không dễ dàng gì thiết lập quan hệ nghĩa với nhau. Như vậy, rõ

ràng qua nhận xét này, ta có thể hiểu được quan niệm của V. Dijk: mạch lạc ít

nhất phải hội tụ đủ ba yếu tố trên (chúng tôi nhấn mạnh). Quan niệm này

thực sự có sức thuyết phục.

10

Ngữ pháp truyện của T. Todorov (1968), được phát triển lên bởi D.

Rumelhart (1975) cùng với các đồng nghiệp của ông là S. Garrod và A. Sanford

đều cho rằng tính hợp lý lắng sâu bên trong ngữ pháp truyện là ở chỗ các truyện

tuân theo một khuôn hình mềm dẻo nhưng có thể khuôn định trong những quy

tắc loại như quy tắc viết lại [6, tr.200]. Và theo các tác giả này, cấu trúc nào của

ngữ pháp truyện làm thành được cái khung cho mạch lạc của truyện thì cấu trúc

đó đúng (tính đúng ở đây, theo Foucault định nghĩa, là một hệ thống các thủ tục

được sắp đặt đối với việc sản sinh, điều chỉnh, phân phối, lưu thông và thao tác

trong trình bày).

Năm 1976, M.A.K. Halliday và R. Hasan với “Liên kết trong tiếng Anh”

tuy không nghiên cứu trực tiếp về mạch lạc, nhưng chúng ta có thể hiểu quan

niệm về mạch lạc của họ như sau: “… Chất văn bản bao gồm nhiều hơn, không

chỉ là sự có mặt của những quan hệ nghĩa thuộc loại mà chúng tôi quy về liên

kết – sự phụ thuộc của yếu tố này vào yếu tố khác để giải thích được nó. Nó bao

gồm một chừng mực nào đó của mạch lạc trong các ý nghĩa được diễn đạt:

không chỉ hoặc không phải chủ yếu là ở NỘI DUNG, mà ở sự lựa chọn TOÀN

BỘ từ các nguồn ý nghĩa của ngôn ngữ đó, bao gồm cả các thành tố liên nhân

khác nhau, các thức, các tình thái, các độ mạnh và những hình thái khác nữa

mà người nói nhồi nhét vào trong tình huống nói”. [116, tr.22]

Đến năm 1978, H.G. Widdowson với “Dạy tiếng theo giao tiếp” đã phân

biệt sự liên kết văn bản với mạch lạc diễn ngôn. Theo tác giả, mạch lạc diễn

ngôn biểu hiện trong khả năng dung hợp nhau của các hành động nói. Khả năng

này thể hiện qua cấu trúc theo qui ước của tương tác lời nói. Chính cấu trúc này

cung cấp lời giải thích cho cách thức mà một số phát ngôn rõ ràng là không nối

kết với nhau về mặt hình thức (không có liên kết) lại có thể được giải thuyết

trong phạm vi một thể loại tương tác lời nói nào đó, tạo ra chuỗi lời nói mạch

lạc. Ông đưa ra ví dụ như:

A: That’s the telephone. (Có điện thoại)

B: I’m in the bath. (Anh đang tắm)

11

A: OK . (Thôi được)

Chuỗi lời nói này là diễn ngôn mạch lạc. Còn liên kết văn bản thì được

nhận biết trên bề mặt từ ngữ, ngữ pháp và trong sự triển khai mệnh đề một cách

logic.

D. Edmonson (1981) cũng khảo sát vấn đề về cái gì phân biệt văn bản với

phi văn bản (tức là, các văn bản mạch lạc với các văn bản không mạch lạc).

Ông quả quyết rằng khó mà tạo ra những phi văn bản từ những câu đứng cạnh

nhau bởi vì nói chung có thể tạo ra một vài kiểu ngữ cảnh đem lại tính mạch lạc

cho bất kỳ tập hợp câu nào. Ông phản đối điều khẳng định của V. Dijk, H.G.

Widdowson và đưa ra những ví dụ rất ngắn để cung cấp những văn bản hiểu

được khi không có các đánh dấu liên kết.

Năm 1983, trong tác phẩm “Phân tích diễn ngôn”, G. Brown và G. Yule

đã dành hẳn một chương cuối cùng cho “Tính mạch lạc trong việc giải thuyết

diễn ngôn”. Trong chương này, tác giả đã trích dẫn quan điểm của Labov

(1970) “nhận ra tính mạch lạc và không mạch lạc ở các chuỗi hội thoại không

dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa các phát ngôn, mà là giữa các hành động được

thực hiện bằng các phát ngôn này”. [22, tr.351]

Năm 1989, G.M. Green là người xem xét mạch lạc trên cơ sở của nguyên

tắc cộng tác do H.P. Grice đề xướng. Ông cho rằng: “Mạch lạc của văn bản

không phải là vấn đề của những đặc trưng dành riêng cho văn bản, mà là vấn

đề của cái sự thật có thể coi là: việc những người tiếp nhận văn bản có năng

lực suy luận bằng mọi cách là việc cần thiết để chắp nối nội dung của các câu

cá thể lại với nhau”, và họ chắp nối “bằng cách làm rõ việc suy ra một trình tự

thực hiện cái dàn ý được suy ra để đạt đến cái mục tiêu được suy ra”. Đồng

thời, G.M. Green thừa nhận có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với mạch lạc.

Do vậy, cách tiếp cận của ông đối với mạch lạc có thể gọi là mạch lạc theo

nguyên tắc cộng tác.

12

D. Nunan, 1993, trong “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn”, nhất trí với ý

niệm cho rằng liên kết không “tạo ra” mạch lạc và việc thiết lập tính mạch lạc

là việc người đọc/ người nghe có sử dụng kiến thức ngôn ngữ của họ để liên hệ

thế giới diễn ngôn với những con người, vật thể, sự kiện và sự thể bên ngoài

bản thân văn bản v.v.

Trong khi đó, ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về mạch lạc có

nhưng chưa nhiều. Công trình nghiên cứu đầu tiên là Hệ thống liên kết văn bản

tiếng Việt (1985) của Trần Ngọc Thêm. Trong công trình này, tác giả đề cập

đến liên kết và hệ thống liên kết trong văn bản tiếng Việt. Tuy nhiên, công trình

có phân tích khá chi tiết về liên kết nội dung thể hiện qua liên kết chủ đề và liên

kết logic. Khái niệm liên kết nội dung của tác giả trong thời điểm lúc bấy giờ có

lẽ cũng phù hợp với khái niệm mạch lạc của nhiều nhà ngôn ngữ học hiện nay.

Do vậy, công trình này có thể được xem là công trình đầu tiên ở Việt Nam có

đề cập đến mạch lạc.

Trong công trình Văn bản và liên kết trong tiếng Việt (1998), Diệp Quang

Ban đã trình bày về vấn đề mạch lạc văn bản một cách khá chi tiết. Đến năm

2002, quyển Giao tiếp - Văn bản - Mạch lạc - Liên kết - Đoạn văn ra đời, chính

tác giả đã bổ sung, mở rộng và hiệu chỉnh mục nói về mạch lạc (trong sách

1998) thành Phần thứ ba: Mạch lạc, với việc giới thiệu những nội dung rõ ràng

và chi tiết hơn về mạch lạc trong quá trình tạo lập và giải thích văn bản. Và năm

2005, với quyển VĂN BẢN, tác giả đã dành hẳn chương hai để viết về Mạch lạc

văn bản với hai nội dung cụ thể: mạch lạc tạo lập văn bản và những biểu hiện

của mạch lạc trong văn bản.

Trong công trình nghiên cứu “Ngữ pháp chức năng tiếng Việt” quyển 1,

tác giả Cao Xuân Hạo cũng có đề cập đến vấn đề mạch lạc trong ngôn bản và

liên kết câu với quan niệm “Khi ngôn bản gồm từ hai câu trở lên, giữa các câu

có một quan hệ nhất định khiến chúng không phải là bất kỳ đối với nhau: giữa

chúng có một mạch lạc” và sự mạch lạc giữa các câu này được thực hiện bằng

13

các phương tiện từ ngữ, ngữ pháp trong các câu và bằng bố cục. Tác giả minh

chứng cho quan điểm của mình qua các ví dụ cụ thể như: Lên tí nữa. Tí nữa.

Sang trái một chút. Được rồi đấy. Đinh đây này. Năm câu trong ví dụ trên cho

chúng ta hình dung được ai đó đang định vị một vật.

Ví dụ này minh hoạ cho chuỗi câu mạch lạc. Bằng các ví dụ điển hình, cụ

thể, tác giả đã phân tích trong một số trang, tuy ngắn nhưng thực sự thể hiện

được khá tường minh khái niệm mạch lạc.

Bên cạnh đó, còn có một số tác giả khác như Đỗ Hữu Châu, trong

“Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các sự kiện văn học” (tạp chí

Ngôn ngữ số 2/ 1990), “Ngữ pháp văn bản” (1994), “Đại cương ngôn ngữ học”

tập 2 (2001); Nguyễn Đức Dân “Logic và tiếng Việt” (1998) cũng đã có một số

quan điểm phác họa về mạch lạc đáng chú ý.

Gần đây có một số bài viết về mạch lạc như: Trần Thị Vân Anh “Mạch

lạc theo quan hệ nguyên nhân trong Truyện Kiều” (2002), Nguyễn Thị Thìn

“Về mạch lạc của văn bản viết” (ứng dụng vào phân tích truyện ngắn Đám ma

kỳ lạ nhất mà tôi chứng kiến của Ezra M. Cox) (2003), v.v.

Tóm lại, việc nghiên cứu về mạch lạc văn bản của các nhà nghiên cứu

ngôn ngữ học trên thế giới và ở Việt Nam, chủ yếu trên ngữ liệu tiếng Anh và

tiếng Việt, đã nêu bật một số quan điểm về mạch lạc.

- Mạch lạc là một vấn đề khá trừu tượng và khó nắm bắt. Vẫn còn nhiều

quan điểm chưa đồng nhất về mạch lạc.

- Mạch lạc là yếu tố quan trọng và chủ yếu tạo nên văn bản. Khi gọi là

một văn bản thì cũng có nghĩa là chính chuỗi phát ngôn đó chắc chắn đã mạch

lạc. Và ngược lại, không có mạch lạc, chuỗi phát ngôn này sẽ không trở thành

văn bản.

- Mạch lạc và liên kết không phải là một. Mạch lạc thể hiện ở bề sâu của

quan hệ nghĩa, còn liên kết thể hiện ở bề mặt bằng các hình thức liên kết khứ

14

chỉ, hồi chỉ, v.v, và là một phương thức góp phần tạo nên mạch lạc trong văn

bản.

- Mạch lạc ở hội thoại khác mạch lạc trong văn bản viết. Mạch lạc hội

thoại thường gắn chặt với hoàn cảnh và tình huống phát ngôn; còn mạch lạc

trong văn bản viết gắn chặt với chủ đề và toàn cảnh của văn bản.

- Mức độ nhận định về mạch lạc của một văn bản chủ yếu tuỳ thuộc vào

khả năng tư duy, thái độ tình cảm, trình độ hiểu biết và kiến thức nền của người

đọc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có một số yếu tố cơ bản khác giúp người

đọc/ người nghe xác định được chuỗi câu mạch lạc và chuỗi câu không mạch

lạc.

Nhìn chung, trong những thập kỷ gần đây, lý thuyết về mạch lạc đã và

đang được các nhà nghiên cứu ở phương Tây cũng như ở Việt Nam đề cập đến

khá nhiều, tuy nhiên, những công trình có tính ứng dụng vào thực tiễn nói/ viết

thì ít.

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Nghiên cứu về ngữ pháp văn bản, phân tích diễn ngôn là lĩnh vực khá

hấp dẫn. Lĩnh vực này có nhiều vấn đề phức tạp nhưng không kém phần thú vị,

cần thiết và quan trọng. Và mạch lạc văn bản chính là một trong những vấn đề

nói trên. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá mạch lạc là hiện tượng khá mơ hồ,

không tường minh, khó nắm bắt. Nhưng với lý do và mục đích như đã trình

bày, luận án chọn mạch lạc trong văn bản viết, cụ thể là bài làm văn của học

sinh phổ thông, làm đối tượng để tiếp cận và nghiên cứu với hy vọng sẽ tìm

được những giải thuyết tường minh hơn cho vấn đề về mạch lạc trong văn bản

trên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Mạch lạc là vấn đề rất rộng và vô cùng phức tạp. Trong phạm vi của luận

án, để việc nghiên cứu được tập trung, nội dung giải quyết phù hợp với đề tài

15

đặt ra, với điều kiện và khả năng có hạn, chúng tôi vận dụng những thành tựu

nghiên cứu về mạch lạc của các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước để khảo

sát một số bài làm văn của học sinh phổ thông nhằm xác định những tiêu chí về

mạch lạc trong dạng văn bản này.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU

5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu

Sau khi đã xác định “Những vấn đề về mạch lạc văn bản trong bài làm

văn của học sinh phổ thông” làm đề tài luận án, chúng tôi tiến hành nghiên cứu

với các phương pháp sau.

5.1.1. Phƣơng pháp thống kê

Đối với luận án này, chúng tôi dùng chương trình SPSS để xử lý mẫu và

cho xuất các bảng thống kê về lỗi từ bài làm văn của học sinh.

5.1.2. Phƣơng pháp phân tích ngôn ngữ học

a. Phân tích lỗi

Luận án thực hiện quá trình phân tích lỗi thông thường mà các nhà

nghiên cứu sử dụng: nhận diện (recognition), thông hiểu (interpretation), khôi

phục (reconstruction), phân loại (classification) và giải thích (explanation).

- Nhận diện: lỗi được xác định phụ thuộc vào tiêu chuẩn của sự thể hiện.

Tiểu chuẩn này phụ thuộc vào trình độ, năng lực, động cơ… của người học.

- Thông hiểu: điều cốt lõi của sự thông hiểu là kiến thức về tiếng Việt, về

ngữ cảnh mà người viết, người đọc sử dụng để cùng nhận định lỗi.

- Khôi phục: giải thích cho người viết hiểu được cách diễn đạt như vậy

chưa phù hợp với nội dung mà họ muốn thể hiện và hướng dẫn cách khôi phục.

- Phân loại: dựa vào quy tắc dùng từ, đặt câu, dựng đoạn của tiếng Việt

để phân loại lỗi.

- Giải thích: phân tích những nguyên nhân dẫn đến lỗi.

b. Phân tích mẫu

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!