Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Những triệu chứng bất ổn trong lịch sử khẩn hoang Nam kì - 1 ppsx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Những triệu chứng bất ổn trong lịch sử khẩn hoang Nam kì
1
Việc khai thác đất đai ở Nam kỳ đem lại nguồn lợi đáng kể cho thực dân : bán đất
công thổ, thâu thêm thuế điền, thâu thuế xuất cảng lúa gạo, dân tiêu thụ thêm hàng
hóa nhập cảng.
Sau trận thế chiến thứ nhứt, địa vị người Pháp ở thuộc địa được củng cố hơn.
Nước Pháp thắng trận, các nước ở Đông Dương góp phần để giúp mẫu quốc với
con số khá cụ thể :
— Trong 1000 dân, đổ đồng có 5 người sang Pháp (cỡ 2 người làm lính chiến, 2
người làm lính thợ).
— Tính đổ đồng, mỗi người dân ở Đông Dương gởi giúp sang Pháp là 2 cắc, trích
trong quỹ của ngân sách Đông Dương còn dư lại.
— Năm 1916, quan toàn quyền Charles cho Pháp bằng tiền và bằng gạo trị giá 3
triệu bạc.
— Gần hồi đình chiến, Đông Dương cho Pháp vay lối 30 triệu bạc.
— Tiền quyên trợ cho Pháp lối 600 triệu bạc.
Sau năm 1919, nền kinh tế Đông Dương thêm dồi dào nhờ chánh sách đầu tư.
Năm 1921, Pháp cho một tập đoàn tài phiệt (trong đó có Đông Dương Ngân Hàng)
thử nghiên cứu việc nối liền đường xe lửa từ Sài Gòn lên Battambang (Batambang
là tỉnh nhiều lúa gạo dư để xuất cảng) và đường xe lửa nối liền từ Mỹ Tho đến Bạc
Liêu nhưng chỉ là kế hoạch dở dang trên giấy.
Mức sản xuất ở Nam kỳ từ năm 1920 đến 1927 trung bình trên hai triệu tấn mỗi
năm, cao nhứt là năm 1927 với 2.291.333 tấn. So với 1926 thì mùa 1927 ở các tỉnh
miền Tây diện tích canh tác tăng thêm 72.440 mẫu (Vĩnh Long, Sa Đéc, Long
Xuyên, Châu Đốc, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu). Các tỉnh
còn lại của Nam kỳ chỉ tăng chừng 16.000 mẫu.