Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Những tác phẩm biến đổi thế giới
MIỄN PHÍ
Số trang
55
Kích thước
460.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1805

Những tác phẩm biến đổi thế giới

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

NHỮNG TÁC PHẨM

BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI

Robert B. Downs

Hoài Châu và Từ Huệ dịch

Nhà xuất bản Lao Động

2003

Mục lục

Lời giới thiệu

Phần thứ nhất : Thế giới con người

1. Ông Hoàng - Niccolò Machiavelli

2. Lương tri - Thomas Paine

3. Quốc phú luận - Adam Smith.

4. Luận về nguyên tắc dân số - Thomas Malthus.

5. Dân sự bất phục tòng - Henry David Thoreau.

6. Túp lều bác Tom - Harriet Beecher Stowe.

7. Tư bản luận - Karl Marx.

8. Ảnh hưởng uy lực trên biển cả trong lịch sử - Alfred T. Mahan.

9. Căn bản địa lý của lịch sử - Sir Halford J. Mackinder.

10. Cuộc chiến đấu của tôi (Mein kampf) - Adolf Hiler.

Phần thứ hai : Thế giới khoa học.

11. Vũ trụ tuần hoàn - Nicolaus Copernicus.

12. Vai trò của tim - William Harvey.

13. Nguyên tắc toán học - Sir Isaac Newton.

14. Nguồn gốc muôn loài - Charles Darwin.

15. Đoán mộng - Sigmund Freud.

16. Thuyết tương đối - Albert Einstein.

Lời giới thiệu

16 tác phẩm được Robert B. Downs trình bày trong cuốn sách này gồm đủ loại : chính trị, kinh tế, y

học, triết học…; xuất hiện từ cuối thời Trung cổ tới giữa thế kỷ XX. Theo tác giả, đây là những tác

phẩm từng gây được những ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài ở phương Tây và ở cả phương Đông, có tác

động lớn lao tới đời sống nhân loại, xứng đáng được gọi là "Books That Changed World" - Những tác

phẩm biến đổi thế giới.

Dẫu thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả có nhiều điểm khác chúng ta, và sự nhận định của

tác giả không hiếm khi thiếu chính xác, song đây quả là một cuốn sách rất nên tham khảo. Nó giới thiệu

với chúng ta, theo trình tự thời gian, những kiến thức và tư tưởng của hàng trăm ngàn trang sách viết

bằng những thứ tiếng khác nhau, đã được thu gọn.

Hy vọng rằng, công phu của tác giả cũng như của các dịch giả và sự ủng hộ của Nhà xuất bản, sẽ

giúp ích phần nào cho bạn đọc xa gần trong những giờ nghiên cứu ngoại khóa hay những giờ giải trí.

Rất mong nhận được sự góp ý của các bạn.

Chân thành cám ơn.

Thiên Trung

1. ÔNG HOÀNG

Niccolò Machiavelli

Trải qua hơn bốn thế kỷ, trong suy nghĩ mọi người trên khắp thế giới, tiếng "Machiavelian" đồng

nghĩa với một cái gì quỉ quái, phản phúc, xấu xa, độc ác và đồi trụy. Tính từ ấy bắt nguồn từ cái tên

Niccolò Machiavelli là một biểu tượng của nhà chính khách đầy mưu mô, thủ đoạn, giả đạo đức, vô

luân lý, tráo trở và bất nhân mà triết lý duy nhất là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Khắp thiên hạ

đều cho rằng đối với Machiavelli, cái luật chính trị "cao" nhất là luật tùy thời.

Ở Anh vào thế kỷ XVII, "Già Nick" là hiệu danh dùng để bổ nghĩa cho cả hai danh từ riêng

Machiavelli và quỉ Satan. Có thể nào bào chữa cho bị cáo, hay liệu có trường hợp giảm khinh nào

không ? Cái tiếng dữ ấy đồn xa chỉ vì một cuốn sách, cuốn "Ông Hoàng" viết năm 1513, nhưng mãi

đến năm 1532 mới xuất bản, nghĩa là năm năm sau khi tác giả của nó từ trần. Không có tác phẩm văn

học nào thoát khỏi sự liên hệ với thời đại của nó và trong trường hợp cuốn "Ông Hoàng" điều đó lại

càng đúng. Thế mà cuốn sách ấy chứa đựng những bài học cho muôn đời.

Người ta không biết rõ về cuộc đời của Machiavelli kể từ năm 1498 trở về trước. Năm đó, 1498,

Machiavelli 29 tuổi đã là Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hòa Florence. Ông giữ chức vụ này trong 18

năm. Vì công việc ngoại giao ông được đi Tuscany, vượt qua bên kia rặng núi Apennines tới Roma,

và sau đó vượt qua cả núi Alpes. Ông được quen biết nữ Bá tước Caterina Sforza; các ông Pandolfo

Petrucci, nhà độc tài xứ Siena; Ferdinand xứ Aragon, Louis XII nước Pháp, Hoàng đế Maximillan,

Đức Giáo Hoàng Alexander VI, Đức Giáo Hoàng Julius II và Cesare Borgia. Giữa Florence và các

tiểu quốc Venice, Pisa, Milan và Naples luôn xảy ra những mối bất hòa. Thời đó, chính trị suy đồi đến

độ không thể tưởng tượng nổi. Là người rất sành tâm lý, Machiavelli như cá gặp nước, ông có dịp thi

thố tài năng trong những nhiệm vụ thương thuyết thật khó khăn. Sự thực tế hay trân tráo đối với các vấn

đề chính trị của ông về sau này hẳn là do kinh nghiệm mà có, bởi ông đã học được cái bí quyết coi

thường mọi động lực khác mà chỉ chú trọng đến lòng tham và ích kỷ.

Rồi bất hạnh xảy tới. Nhờ viện trợ của Tây Ban Nha, họ Medecis lật đổ chế độ Cộng hòa và tái lập

nền thống trị ở Florence. Machiavelli bị cách chức, tống giam, tra tấn và sau cùng bị đày về một trang

trại nhỏ gần San-Casciano. Ông sống ẩn dật nơi đó cho đến khi mất, năm 1527, trừ một vài chuyến

xuất ngoại rất ngắn hạn. Trong những năm dài ẩn dật buồn nản, sự giải trí của ông là soạn sách : Ông

Hoàng, Những bài diễn văn, Nghệ thuật chiến tranh và Lịch sử xứ Florence , tất cả đều đặc biệt

liên quan đến chính trị thời xưa và đương thời.

Khó mà nhận định được tình cảm của ông đối với việc công ra sao, ngoại trừ một vấn đề mà ông

cảm xúc chân thành. Ông là một nhà ái quốc chân chính hết lòng mong muốn cho nước Ý được thống

nhất và hùng cường. Bình thường ông nhận xét sự việc một cách lạnh lùng, hoài nghi, một nhà trí thức

thuần túy không biết câu nệ. Nhưng một khi bàn về sự thống nhất nước Ý thì ông say sưa, hùng hồn,

nồng nàn và linh hoạt. Tình trạng nước Ý hồi đầu thế kỷ XVI bi thảm đến nỗi có thể làm cho kẻ yêu

nước rơi nước mắt.

Đương thời của Machiavelli, một biến động lớn về chính trị, kinh tế và thần học đang ngấm ngầm

nổi lên ở Ý. Ở những nơi khác : Anh, Pháp và Tây Ban Nha sau nhiều năm tranh đấu đã tạm hoàn thành

thống nhất quốc gia. Trái lại ở Ý quan niệm về một tổ chức quốc gia hay liên bang vẫn còn chưa được

nghĩ tới. Bấy giờ có năm guồng máy chính trị lớn cai trị nước Ý : Milan, Florence, Venice, Tòa Thánh

và Naples. Lớn mạnh nhất là Venice. Sự phân chia chính trị năm bè bảy mối là một nguyên nhân làm

cho nước Ý suy yếu và ngoại bang dòm ngó. Khởi đầu là vua Charler VIII nước Pháp xâm lăng năm

1494 và vị vua này vừa rút binh khỏi nước Ý độ vài năm thì đến lượt vua Louis XII và Ferdinand xứ

Argon, cả hai đều đồng ý chia đôi vương quốc Naples. Hoàng đế Maximilian phái binh tới chinh phục

Venice. Quân đội Đức, Thụy Sĩ, Pháp và Tây Ban Nha giày xéo và đánh lẫn nhau trên đất Ý.

Trong khi đó thì giữa người Ý với người Ý gây hấn lẫn nhau, thù hận, cướp bóc và giết chóc nhau

như cơm bữa. Cộng hòa này khai chiến với Cộng hòa kia, ganh tỵ uy quyền lẫn nhau không thể nào hợp

nhất thành một mặt trận cùng chống ngoại thù. Tòa Thánh bấy giờ đang ở giai đoạn suy yếu nhất trong

lịch sử, lo sợ có đối thủ mạnh cướp mất quyền lực thế gian, nên muốn duy trì tình trạng chia năm xẻ

bảy hơn là thực hiện thống nhất đất nước.

Lúc bấy giờ có lẽ Machiavelli là người sáng suốt hơn cả, đã nhận thức được những nguy cơ đang đe

dọa nước Ý. Trong cuộc sống ẩn dật bất đắc dĩ ngày đêm suy ngẫm về những thảm họa đã giáng xuống

đất nước thân yêu, ông đi tới kết luận là hy vọng duy nhất có thể cứu vãn xứ sở là phải có một đại lãnh

tụ và vị lãnh tụ ấy phải cường mạnh và quyết liệt để thu phục những tiểu quốc nhỏ bé, thống nhất họ lại

thành một quốc gia đủ sức tự bảo vệ và đánh đuổi ngoại xâm. Một lãnh tụ cỡ đó phải kiếm ở đâu ?

Trong cuốn "Ông Hoàng", Machiavelli trình bày quan niệm của ông về bậc lãnh tụ lý tưởng đó và tỉ mỉ

vạch rõ con đường mà vị đại lãnh tụ ấy phải theo để đi tới thành công.

Mặc dù Machiavelli đề tặng cuốn "Ông Hoàng" cho Lorenzo de Medici đương trị vì xứ Florence

lúc bấy giờ, nhưng vai chính cuốn sách lại là Cesare Borgia, con của Đức Giáo Hoàng Alexander VI,

mới mười bảy tuổi đã là Hồng y. Cesare Borgia còn là một tướng lãnh tài ba đã chinh phục tỉnh

Romagna và là một nhà độc tài, tàn ác. Năm 1502 Machiavelli được cử đi sứ tại triều đình Cesare

Borgia và, đúng như Nevins đã bình luận, Machiavelli "đã thán phục Borgia hết sức khi thấy nhà độc

tài này đã khéo léo áp dụng sự thận trọng và sự táo bạo, lời nói ngọt ngào mà hành động lại đẫm máu,

lạnh lùng trí trá như thế nào và giả dối ra sao, lúc khủng bố để khuất phục thiên hạ thì tàn nhẫn đến

mức độ nào, cả khi áp dụng chế độ độc tài để kìm kẹp một tiểu quốc thì hiệu quả ra sao". Nhờ sử dụng

sự phản trắc, độc ác và bội tín, Cesare đã thành công rực rỡ, nhưng chỉ là thành công nhất thời.

Machiavelli vốn là người chủ trương trung thành với một chính thể cộng hòa nhưng khi nghiên cứu tình

trạng tuyệt vọng và bi thảm của nước Ý, ông tin rằng một mẫu người như Cesare Borgia mới đáng là

lãnh tụ lý tưởng để chấm dứt tình trạng hỗn loạn bấy giờ. Và rồi với lòng ái quốc nhiệt thành, cảm

hứng vì viễn tượng thống nhất quốc gia, ý thức được nhu cầu khẩn trương lúc ấy và cơ hội ngàn năm

một thuở dành cho người mới lên cầm quyền, Machiavelli trút hết lòng nhiệt thành và năng lực dồi dào

vào công việc soạn cuốn "Ông Hoàng". Tác phẩm hoàn thành trong sáu tháng cuối năm 1913, và sau

đó ít lâu được đệ lên triều Vua Lorenzo với lời đề tặng của tác giả như sau :

"Trộm nghĩ không còn gì đáng giá để kính tặng ngài, hơn là dâng ngài nhàn lãm, để có thể hiểu được

trong một khoảng thời gian ngắn nhất tất cả những kinh nghiệm mà tôi đã học hỏi được cùng lúc với

nhiều gian khổ và nguy hiểm".

Luận cứ căn bản trong cuốn "Ông Hoàng" là : thịnh vượng của xứ sở biện minh cho tất cả mọi

phương tiện và trong cuộc sống công cộng và đời tư có những tiêu chuẩn luân lý khác nhau. Theo luận

thuyết này, vì công ích, nhà chính khách có quyền có những hành động bạo tàn và lừa đảo vốn là những

hành động chắc chắn sẽ bị lên án và có thể bị coi như là trọng tội trong những quan hệ giữa cá nhân.

Nói cho đúng ra Machiavelli chủ trương phân biệt giữa đạo đức và chính trị, Ông Hoàng là một thứ

kim chỉ nam cho những bậc vua chúa (có người nói là cho những bạo chúa), dạy cách chiếm đoạt và

duy trì quyền bính, tuy quyền bính đây không phải là để làm lợi cho nhà cầm quyền mà là để làm lợi

cho dân, để xây dựng cho dân một chính thể ổn định, đủ sức chống lại cách mạng cũng như ngoại xâm.

Làm thế nào để tạo được ổn định và an ninh ?

Trường hợp những thể chế quân chủ thế tập thì khỏi cần bàn tới nhiều, vì với trí thông minh và mẫn

tuệ trung bình, nhà cầm quyền thế tập tất nhiên có thể nắm giữ việc điều khiển chính phủ. Trái lại một

nền quân chủ mới thành lập gặp nhiều khó khăn phức tạp hơn. Việc cai trị sẽ tương đối dễ đàng, nếu

lãnh thổ mới bị chinh phục và sáp nhập thuộc cùng một dân tộc và ngôn ngữ với quốc gia đi thôn tính,

đặc biệt là nếu theo hai nguyên tắc này : "Thứ nhất phải tuyệt diệt dòng họ đã cai trị xứ này, thứ hai là

luật lệ và sưu thuế phải để nguyên không thay đổi".

"Nhưng nếu như lãnh thổ mới chiếm được thuộc một dân tộc khác, có ngôn ngữ, phong tục và luật lệ

riêng thì khó khăn sẽ gấp bội và muốn vượt qua được cần phải có thật nhiều may mắn và khéo léo".

Machiavelli đề nghị những biện pháp kiểm soát mà nhà cầm quyền phải tự thân hành đến ngự trị trên

lãnh thổ đó, phải di dân sang (như thế đỡ tốn hơn là đóng quân), phải kết thân với những nước láng

giềng yếu hơn mình và phải gắng sức làm suy yếu những nước mạnh. Không theo những luật căn bản

đó, Louis XII nước Pháp đã thất bại và mất hết đất đai chinh phục được.

Khi nghiên cứu vấn đề làm thế nào để cai trị các miền chinh phục được, Machiavelli trình bày ba

phương pháp nhờ đó có thể cai trị được một quốc gia vốn đã quen "sống dưới chính luật pháp của

mình và trong tự do... Phương pháp thứ nhất là tiêu diệt quốc gia ấy; thứ hai là thân hành tới sống ở đó;

thứ ba là để xứ đó sinh hoạt theo kỷ cương luật pháp cũ, buộc xứ đó triều cống và trao quyền cho vài

người bản xứ. Những người này sẽ tìm cách giữ cho toàn thể dân chúng còn lại là bạn của quốc gia

thống trị". Trong ba phương pháp ấy Machiavelli cho hai phương pháp đầu là vẹn toàn hơn cả.

Tuy nhiên, nếu đô thị hay xứ nào mới chiếm được đó quen sống dưới chế độ một Vương giả mà

dòng họ vừa bị tuyệt diệt thì người dân địa phương một mặt vì quen sống phục tùng và mặt khác đã

quen bị bóc lột tất không thể nào lựa chọn được một thủ lãnh mới. Họ lại chưa từng biết thế nào là tự

do, tất còn lâu mới nổi dậy được để chống lại chính quyền mới, một người ngoài cuộc có thể dễ dàng

thu phục và lôi kéo họ về với mình.

Bàn thêm về "các tân vương quốc", Machiavelli khuyên rằng "Phải luôn luôn nhớ là tâm lý quần

chúng không nhất trí, dễ thuyết phục họ bao nhiêu thì lại khó giữ cho họ tin mình bấy nhiêu. Vì thế ta

cần chuẩn bị để khi quần chúng không còn tự ý tin nữa, thì buộc họ phải tin bằng võ lực".

Tiếp theo tác giả ca ngợi Cesare Borgia là vị lãnh tụ tài ba đặc biệt có quyền phản bội và phạm tội

giết người.

"Khi nhớ lại những hành động của quận công Borgia, tôi không biết trách cứ ông như thế nào, mà

trái lại tôi nhận thấy rằng, tôi có bổn phận đưa ông ta ra làm gương cho bất cứ ai nhờ may mắn hay do

người khác đưa lên nắm chính quyền. Bởi vì có tinh thần cao thượng và hoài bão lớn lao, quận công

Borgia không thể nào xử sự khác được… Vị tân vương này nhận định rằng điều cần thiết để bảo tồn

cho mình nơi đất mới là phải đắc nhân tâm, phải thắng mọi trở lực hoặc bằng võ lực hoặc bằng xảo

trá, phải làm cho dân vừa mến vừa sợ, quân binh trung tín và tôn sùng, phải tiêu diệt những kẻ có uy

quyền hay có lý do để hại mình, phải đổi mới trật tự và nề nếp cũ, vừa nghiêm khắc, vừa hòa hoãn,

khoan hồng và rộng rãi, phải tiêu diệt đám quân phản phúc và lập những đạo binh mới, phải duy trì

tình hữu nghị với vua chúa bằng cách nào để khi họ giúp thì hết lòng mà gây hấn thì dè dặt. Tất cả

những ông Hoàng có quan điểm đó không thể tìm đâu ra một tấm gương sáng hơn về các hành vi của vị

quận công này.

Một kẻ tiếm quyền khi thôn tính được một xứ rồi phải cấp tốc định việc trừng phạt ngay, rồi sau đó

ra ân để thu phục nhân tâm... ân huệ nên ban bố từ từ, chút một, như vậy dân chúng được thụ hưởng đầy

đủ hơn. Một ông vua sáng suốt nên nhớ rằng trừng phạt chỉ là một trong nhiều phương pháp để chỉ huy

những bầy tôi.

Điều cần thiết cho một vị vương là được lòng dân vì nếu không thế sẽ không còn biết nương dựa

vào đâu lúc gặp cơn hoạn nạn... Đừng để ai dẫn chứng câu tục ngữ xưa : "Xây dựng trên dân chúng là

xây dựng trên cát" để chống lại tôi vì điều đó có thể đúng trong trường hợp cá nhân của một công dân

quá tin ở tình cảm của thiên hạ đối với mình và cứ tưởng thiên hạ sẵn sàng cứu mình khi mình bị kẻ thù

hay công tố viên ức chế. Nhưng một đấng anh hùng can đảm và có khả năng lãnh đạo, biết bảo tồn an

ninh trật tự trong xứ, sẽ chẳng bao giờ nuối tiếc đã xây dựng củng cố an ninh cho mình trên lòng

thương mến của nhân dân.

Luận về thuộc quốc của Giáo hội, tức là những vương quốc dưới quyền cai trị trực tiếp của Giáo

hội, Machiavelli có những nhận định châm biếm vừa chua chát vừa nghiêm khắc hơn hết.

Nhờ công lao hay may mắn mà những thuộc quốc này được bảo vệ bởi những giáo lệnh khả kính và

hữu hiệu đến nỗi uy quyền của những vị vua chúa các vương quốc này được hoàn toàn bảo đảm mặc

dù họ sống hay hành động cách nào tuỳ ý. Họ là những ông chúa duy nhất có đất đai mà không phải bảo

vệ, có bầy tôi mà không phải cai quản.

Ở đây cũng như trong những tác phẩm khác, Machiavelli lên án gay gắt Giáo hội La Mã ở đầu thế kỷ

XVI đã không chịu thống nhất nước Ý để đối phó với ngoại bang. Ông chủ trương phải phân biệt hoàn

toàn Giáo hội và quốc gia.

Vì một chính phủ mạnh cần có quân đội mạnh, Machiavelli cho vấn đề quân sự là tối quan trọng và

dành khá nhiều chỗ bàn tới vấn đề này. Đương thời ông, phần lớn những tiểu quốc Ý quen dùng lính

đánh thuê, hầu hết là người ngoại quốc, trong việc quốc phòng. Machiavelli biện luận rằng những binh

sĩ như thế "vô dụng và nguy hiểm" và một quân đội quốc gia tùy thuộc vào sức mạnh vũ trang, người

cai trị phải coi vấn đề quân sự là mối bận tâm chính yếu.

Machiavelli dành nhiều chương nói về cách cư xử của các ông Hoàng, cư xử thế nào cho phải trong

nhiều trường hợp khác nhau.

"Giữa lối sống thường nhật và cái đạo sống mà người ta phải theo có một sự khác biệt rất lớn...Điều

cần thiết cho một vị vương nào muốn giữ vững địa vị của mình là phải biết cư xử đúng hơn là chỉ biết

tốt và phải biết tùy trường hợp mà sử dụng hay không sử dụng đến lòng tốt... Một vị vương được trời

phú cho những đức tính vẫn được coi là tốt thì ai cũng phải nhận là đáng ca ngợi, nhưng khó mà có thể

có đủ những đức tính ấy, thường xuyên thực thi những đức tính ấy... Cho nên làm chúa thì phải cẩn

trọng để biết cách tránh điều ô nhục gây ra bởi những đồi trụy có thể làm mình mất ngôi".

Một ông Hoàng phải bất chấp sự mang tiếng là hà tiện vì tiêu xài tiền bạc, của cải, hoặc chính mình

hay của bề tôi, hoặc của thiên hạ... Đối với những cái gì không phải của mình hay của con dân, ông

Hoàng phải ban bố chi phí rộng rãi... Bởi vì rộng rãi bằng tài sản của người khác (tài sản chiếm được

trong các cuộc chiến tranh chinh phục) chẳng những không làm giảm mà còn làm tăng thêm oai danh

của mình. Nhưng đem cho tài sản của mình đi nghĩa là làm thiệt hại đến mình. Chẳng gì tự hại mình

bằng sự hoang phí vì làm mất đi phương tiện giúp mình tiêu xài rộng rồi trở thành nghèo túng và bị

khinh nhờn, hoặc để khỏi bị nghèo túng mà hoá ra tham lam và bị thù ghét.

Nhà vua phải nhớ rằng độc ác là một khí giới tốt để giữ cho bề tôi khỏi lục đục và phục tùng. "Bởi

vì ai mà biết dẹp một tình trạng rối loạn bằng một vài biện pháp cứng rắn làm gương, về sau tất sẽ có

thể nhân từ hơn người lúc đầu quá khoan hồng, cứ để cho cái sảy nẩy cái ung, rồi kết quả là đi đến

cướp đoạt và đổ máu làm tổn thương đến toàn thể xứ sở, trong khi ấy thì sự tàn ác của nhà vua chỉ gây

thiệt hại cho những cá nhân".

Machiavelli tuyên bố trong một đoạn văn nổi tiếng: "Do đó mới có vấn đề nên để cho dân yêu hơn

là sợ hay là để cho dân sợ hơn là yêu. Chắc hẳn có người trả lời là phải làm sao vừa được yêu vừa

được sợ : Song le yêu và sợ khó có thể đi đôi với nhau, cho nên, nếu buộc phải chọn lựa thì tốt hơn

nên để cho dân sợ hơn yêu. Bởi vì con người nhiều khi vô ơn bội nghĩa, nông nổi, giả dối, chỉ biết lo

tránh hiểm nguy, tham lam; chỉ hết lòng với ta khi ta còn có thể ban ơn cho họ; sẵn sàng nhảy vào lửa,

hy sinh tài sản, sinh mệnh và con đẻ dứt ruột cho ta khi quyền lực vẫn nằm trong tay ta".

Thật là hết sức trơ tráo mặc dù Machiavelli sau khi cân nhắc nặng nhẹ giữa yêu và sợ đã khuyên

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!