Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Những quy định của luật doanh nghiệp năm 2005 về công ti cổ phần cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2010 37
ths. lª thÞ lîi *
1. Những quy định của Luật doanh
nghiệp năm 2005 về vốn và cổ phần của
công ti cổ phần
Hiện nay, các quy định về công ti cổ
phần (CTCP) trong Luật doanh nghiệp năm
2005 tuy có tiến bộ hơn Luật doanh nghiệp
năm 1999, đặc biệt là so với Luật công ti
năm 1990 song vẫn còn những hạn chế
nhất định.
Tìm hiểu quy định về tài sản góp vốn
trong Luật doanh nghiệp năm 2005 có thể
thấy những hạn chế và bất cập của một định
nghĩa mang tính liệt kê, không những mâu
thuẫn với Bộ luật dân sự năm 2005 mà còn
nảy sinh một số vấn đề liên quan đến Luật sở
hữu trí tuệ. Khoản 4 Điều 4 Luật doanh
nghiệp năm 2005 chỉ liệt kê các loại tài sản
góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự
do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng
đất, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản
khác ghi trong điều lệ công ti do thành viên
đóng góp để tạo thành vốn của công ti. Như
vậy, Luật doanh nghiệp chỉ đề cập giá trị
quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ và bí quyết
kĩ thuật. Trong khi Luật sở hữu trí tuệ năm
2005 đã đưa ra hệ thống các đối tượng thuộc
quyền sở hữu công nghiệp rất rõ ràng bao
gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh
doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn
địa lí. Quy định của Luật doanh nghiệp về tài
sản góp vốn như vậy là chưa phù hợp với
các luật đã nêu ở trên.
Các quy định về điều kiện, trình tự thủ
tục phát hành chứng khoán của Luật doanh
nghiệp cũng có những nội dung không phù
hợp với Luật chứng khoán. Điểm d khoản 2
Điều 87 Luật doanh nghiệp quy định rõ về
việc xử lí cổ phần còn lại cho đợt phát hành
như sau: “Trường hợp số lượng cổ phần dự
định phát hành không được cổ đông và
người nhận chuyển quyền ưu tiên mua đăng
kí mua hết thì số cổ phần dự kiến phát hành
còn lại sẽ do hội đồng quản trị quản lí. Hội
đồng quản trị có thể phân phối số cổ phần
đó cho cổ đông của công ti hoặc người khác
theo cách thức hợp lí với điều kiện không
thuận lợi hơn so với những điều kiện đã
chào bán cho các cổ đông, trừ trường hợp
Đại hội đồng cổ đông có chấp thuận khác
hoặc cổ phần được bán qua trung tâm giao
dịch chứng khoán”. Quy định này dễ dẫn
đến cách hiểu là số cổ phần còn lại có thể
được bán qua trung tâm giao dịch chứng
khoán, nghĩa là phải tuân thủ Luật chứng
khoán. Trong khi đó, Luật chứng khoán năm
2006 quy định việc chào bán cổ phần ra
công chúng của doanh nghiệp phải đảm bảo
* Giảng viên Khoa pháp luật kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội